Bệnh sởi
Sởi là bệnh truyền nhiễm cấp tính cực kỳ nguy hiểm do virus gây ra, tốc độ lây lan nhanh chóng trong cộng đồng, đặc biệt là ở những khu vực đông người như: nhà trẻ, trường học, khu đông dân cư. Bệnh dễ bùng phát thành dịch, thậm chí đại dịch nếu không có biện pháp phòng ngừa thích hợp. Bệnh sởi thường gặp ở trẻ nhỏ, người có miễn dịch kém, dễ dẫn đến biến chứng như viêm phổi, viêm não, viêm tai giữa, tiêu chảy.
Tại Việt Nam, sởi lưu hành quanh năm, mạnh nhất vào các thời điểm giao mùa với đặc điểm thời tiết diễn biến phức tạp, nắng mưa thất thường, nhất là vào thời điểm giao mùa Đông – Xuân. Sởi tại Việt Nam được ghi nhận có chu kỳ gây dịch khoảng 4 – 5 năm/lần.
Sởi là bệnh truyền nhiễm cấp tính do virus gây ra. Bệnh lây truyền qua đường hô hấp, do dịch tiết mũi họng của người nhiễm bệnh theo không khí thoát ra khi người bệnh ho hoặc hắt hơi, nói chuyện.
Nguyên nhân gây bệnh sởi ở trẻ em là do virus Morbili, thuộc họ Paramyxoviridae. Khi xâm nhập vào cơ thể qua niêm mạc hô hấp như mắt, mũi, miệng…, virus sẽ xâm nhập vào phổi và bắt đầu tấn công các tế bào miễn dịch trong hệ hô hấp. Sau khi xâm lấn vào các hạch bạch huyết, virus tiếp tục lan truyền qua đường máu đến khắp các cơ quan trong cơ thể như gan, da, hệ thần kinh trung ương, lá lách và nhiều cơ quan khác, gây tổn thương đa cơ quan.
Khi virus tấn công các tế bào da, chúng gây viêm các mao mạch, dẫn đến tình trạng phát ban sởi đặc trưng. Đáng lo ngại hơn, nếu virus vượt qua hàng rào máu não và xâm nhập vào hệ thần kinh trung ương, nó có thể gây sưng não, một biến chứng nghiêm trọng đe dọa tính mạng. Tình trạng này không chỉ gây nguy hiểm trực tiếp mà còn làm tăng nguy cơ mắc các biến chứng khác, đặc biệt ở những trẻ em có hệ miễn dịch yếu.
Ước tính từ 90 – 100% người chưa có miễn dịch tức chưa tiêm vắc xin hoặc chưa từng mắc sởi có thể bị lây nếu tiếp xúc với nguồn bệnh, chẳng hạn như chỉ cần đi qua đầu giường của một bệnh nhân mắc sởi. Trẻ em là đối tượng đặc biệt dễ nhiễm bệnh, trẻ càng nhỏ nguy cơ lây nhiễm, mắc bệnh càng cao. Bởi trẻ em là nhóm đối tượng có hệ miễn dịch cùng khả năng trí nhớ miễn dịch chưa hoàn chỉnh, sức đề kháng với bệnh tật kém nên khi tiếp xúc với mầm bệnh, tỷ lệ nhiễm bệnh sởi có thể lên đến 100%.
![]() |
Virus sởi cũng có khả năng lây gián tiếp khi chạm tay vào các đồ vật, bề mặt bị nhiễm dịch tiết đường mũi họng của người bệnh sau đó đưa lên mắt, mũi, miệng. |
Hệ số lây nhiễm của sởi có thể đạt ngưỡng 18, tức là một cá nhân mắc bệnh sởi có thể truyền virus cho 12 – 18 người không có miễn dịch ở xung quanh. Điều này cho thấy mức độ lan truyền đáng lo ngại của bệnh, đặc biệt ở nhóm trẻ chưa được tiêm vắc xin hoặc chưa tiêm vắc xin đầy đủ.
Trẻ nhiễm bệnh sởi có thời gian ủ bệnh là 7-21 ngày, sau đó có thể có đầy đủ các triệu chứng như: Sốt cao > 39 độ C; viêm đường hô hấp trên, chảy nước mũi, ho khan kéo dài, khàn tiếng, có hạt Koplik trong miệng; chảy nước mắt, viêm màng tiếp hợp, mắt có gỉ kèm nhèm, sưng nề mí mắt…
Ngoài ra, người bệnh có thể xuất hiện ban mọc theo thứ tự bắt đầu ngày thứ nhất từ đầu, mặt, cổ, ngày thứ 2 ngực lưng cánh tay, ngày thứ 3 bụng, mông, đùi, chân, khi ban mọc tới chân sẽ hết sốt và bay dần.
Bệnh thủy đậu
Trẻ em là đối tượng dễ mắc thủy đậu, nhất là những bé chưa được tiêm phòng. Thủy đậu ở trẻ có thời gian ủ bệnh lâu, dễ lây lan thành dịch nên cha mẹ cần chú ý các triệu chứng, cách điều trị và chăm sóc cho bé, tránh biến chứng. Các triệu chứng bệnh thủy đậu nhẹ hơn ở trẻ em so với người lớn. Bệnh có thể khỏi nhanh chóng sau thời gian phát bệnh mà không để lại biến chứng nào. Tuy nhiên, nếu không có biện pháp điều trị đúng, thủy đậu ở trẻ có thể gây biến chứng nghiêm trọng ở trẻ.
Bệnh thủy đậu là bệnh truyền nhiễm, do virus Varicella Zoster gây ra và thường bùng phát thành dịch vào mùa xuân. Nếu trẻ tiếp xúc với các hạt tiết dịch nhỏ li ti của người mắc thủy đậu trong khi nói chuyện, hắt hơi, chảy mũi… có thể nhiễm bệnh. Virus gây bệnh còn tồn tại trong dịch nước ở các nốt mẩn đỏ, nếu chạm phải dịch này cũng có thể lây bệnh. Ngoài ra, nếu dùng chung đồ dùng cá nhân như bát, đũa, khăn mặt… cũng có thể bị lây nhiễm.
Virus gây bệnh thủy đậu lây chủ yếu qua đường hô hấp (hoặc không khí). Người lành dễ bị nhiễm bệnh nếu hít phải những giọt nước bọt bắn ra khi bệnh nhân thủy đậu ho, hắt hơi hoặc chảy mũi. Ngoài ra, khi tiếp xúc với bệnh nhân thủy đậu, bệnh có thể lây từ bóng nước khi bị vỡ ra, lây từ vùng da bị tổn thương hoặc lở loét từ người mắc bệnh. Đặc biệt, phụ nữ mang thai không may bị nhiễm bệnh sẽ rất dễ lây cho thai nhi thông qua nhau thai.
![]() |
Trẻ em là đối tượng hệ miễn dịch còn non yếu nên rất dễ mắc thủy đậu. |
Khi khởi phát, người bệnh có thể có biểu hiện sốt, đau đầu, đau cơ… Một số trường hợp, nhất là trẻ em có thể không có triệu chứng báo trước. Khi bị thủy đậu, cơ thể người bệnh sẽ xuất hiện những "nốt rạ". Đây là những nốt tròn nhỏ xuất hiện nhanh trong vòng 12-24 giờ, các nốt này sẽ tiến triển thành những mụn nước, bóng nước. Nốt rạ có thể mọc khắp toàn thân hay mọc rải rác trên cơ thể.
Thông thường, thủy đậu là bệnh lành tính. Nhưng chúng cũng có thể gây biến chứng nguy hiểm như: Viêm màng não, xuất huyết, nhiễm trùng huyết, nhiễm trùng nốt rạ, viêm mô tế bào, viêm gan. Trường hợp bình thường những mụn nước này khô đi, trở thành vảy và tự khỏi hoàn toàn trong 4-5 ngày. Ở trẻ em, thủy đậu thường kéo dài khoảng 7 - 10 ngày.
Nếu các nốt mụn nước bị vỡ, cha mẹ bôi thuốc nước Methylen màu xanh lên chúng. Điều này giúp kháng viêm, tránh nhiễm trùng, ngăn vi khuẩn lây lan. Lưu ý, tuyệt đối không bôi các loại thuốc mỡ Tetaxilin, Penicillin hay thuốc đỏ; không dùng kem trị ngứa thành phần Phenol cho trẻ em dưới 6 tháng tuổi.
Cha mẹ có thể cho bé uống thuốc hạ sốt nếu trẻ sốt cao, sử dụng thuốc kháng sinh nếu các nốt mụn nước bị nhiễm trùng. Đương nhiên, uống thuốc gì và liều lượng ra sao phải tuyệt đối tuân theo hướng dẫn của bác sĩ.
Bệnh quai bị
Bệnh quai bị do virus gây ra, thường gặp ở trẻ em dưới 15 tuổi, đặc biệt tập trung ở trẻ từ 6 tuổi đến 10 tuổi. Bệnh quai bị rất dễ lây qua đường hô hấp khi nước bọt của người nhiễm bệnh phát tán ra ngoài không khí khi nói chuyện, ho, hắt hơi.
Bệnh quai bị rất dễ lây, đặc biệt là đối với trẻ chưa tiêm phòng. Virus gây bệnh lây lan từ người sang người thông qua các giọt bắn nhỏ trong không khí, được phát tán khi người nhiễm bệnh ho, hắt hơi hoặc trò chuyện. Bên cạnh đó, virus cũng có thể sống trên các bề mặt như tay nắm cửa, đồ dùng, cốc uống nước… Virus quai bị sẽ lây lan khi trẻ nhiễm bệnh và trẻ khỏe mạnh dùng chung những đồ vật này. Nói cách khác, nếu không rửa tay thì bất cứ bề mặt nào mà người bệnh tiếp xúc đều có thể lây quai bị cho những người khác khi chạm vào.
Không có phương pháp điều trị cụ thể đối với bệnh quai bị. Tuy nhiên, hầu hết trẻ em bị quai bị thường hồi phục hoàn toàn trong khoảng 2 tuần. Thông thường trẻ bị quai bị sẽ không mắc bệnh lần hai vì sau lần mắc đầu tiên, cơ thể đã tạo ra kháng thể miễn dịch suốt đời. Tuy nhiên, vì quai bị có thể gây ra một số biến chứng như mất thính lực, viêm vòi trứng, viêm tinh hoàn, viêm tụy, viêm màng não… nên việc chủ động tiêm phòng là rất quan trọng.
![]() |
Quai bị là một bệnh truyền nhiễm do virus có tên là Paramyxovirus gây ra. |
Virus gây bệnh quai bị có thể lây nhiễm sang nhiều bộ phận của cơ thể nhưng phổ biến nhất là gây sưng tuyến nước bọt mang tai. Đây là những tuyến tạo nước bọt nằm ở hai bên trước tai và xung quanh hàm. Quai bị từng rất phổ biến ở trẻ em, đặc biệt là trẻ từ 5 đến 9 tuổi. Trước khi phát bệnh 1-2 ngày, trẻ sẽ cảm thấy khó ở trong người. Trẻ khởi phát bệnh bằng triệu chứng sốt 38-39 độ C, kéo dài trong 3-4 ngày, mệt mỏi, ăn ngủ kém, nhức tai, đau đầu, cảm giác ớn lạnh, sợ gió.
Sau sốt 24- 28 giờ, bệnh nhân xuất hiện triệu chứng viêm tuyến mang tai, trẻ thường sưng cả hai bên, ít khi sưng một bên. Trẻ đau hàm khi há miệng, khi nhai, nuốt, cảm giác đau lan ra tai, họng viêm đỏ, sưng hạch góc hàm. Bệnh thường lành tính, tự khỏi trong 1-2 tuần nhưng đôi khi có thể gây ra các biến chứng nguy hiểm, đặc biệt là trên cơ quan sinh dục.
Cụ thể, một số biểu hiện viêm tinh hoàn có thể quan sát bằng mắt thường như sau: Tinh hoàn bị sưng và đau, có hiện tượng phù nề, căng, đỏ, tinh hoàn có mật độ chắc. Trong một số trường hợp nặng còn có thể bị viêm mào tinh hoàn hay tràn dịch mào tinh hoàn. Tình trạng sốt do viêm tinh hoàn có thể kéo dài từ 3 đến 5 ngày và phải mất từ 3 đến 4 tuần tinh hoàn mới hết sưng.
Tình trạng viêm tinh hoàn do quai bị có thể biến chứng thành teo tinh hoàn nếu không được điều trị đúng cách và sẽ có thể gây ảnh hưởng đến khả năng sinh sản trong tương lai của trẻ.