Trả lời những câu hỏi đầy ngạc nhiên của bà và mẹ, bố chỉ nói ngắn gọn: "Anh ấy biết hát!". Người thương binh trẻ được lau rửa cẩn thận bằng khăn mặt ướt và đặt nằm trên bệ lò sưởi. Để xác định thân nhân của người lính, các sỹ quan đã kiểm tra balo và cực kỳ sửng sốt: người thương binh cụt chân được tặng thưởng 5 huy chương quân công và trong một cái hộp nhỏ màu đỏ có Huân chương Lenin. Anh là trung sĩ Avdeev Nikolai Pavlovich, 25 tuổi.
Các sĩ quan đã kinh qua chiến tranh, nhiều người như bố tôi còn trải qua cả cuộc chiến Phần lan, đều hiểu rõ giá trị của những phần thưởng cao quý này.
Giữa các huy chương có một bức thư. Bề ngoài cho thấy, nó đã không dưới một lần bị vò nát và sau đó được vuốt phẳng phiu. Bức thư ký tên "Yêu anh, Shurochka". "Cô người yêu Shurochka" viết rằng, cho dù Nikolai chỉ còn một chân thì cô cũng sẽ đến quân y viện đón anh về. Nhưng cô gái trẻ xinh đẹp này, chỉ là một đứa con nít mới biết lẫy nên không thể đến đón anh về. Shurochka-tập lẫy viết thư cho anh như vậy! Trong toa tàu, mọi người im lặng một cách khó chịu. Mẹ tôi bật khóc, còn bà thì khẳng định: "Chúa sẽ trừng phạt cô ta!" và lại âu yếm lau mặt cho người thương binh đang say ngủ.
Người thương binh cụt chân ngủ rất lâu, khi tỉnh dậy, dường như, chẳng có vẻ ngạc nhiên về việc mình đang đi đâu và đi với ai. Bởi vậy, anh đồng ý ngay với việc ở lại đơn vị của bố tôi và chỉ nói: "Ở đó có tương lai sáng sủa!".
Chú Nikolai nhiệt tình đáp lại việc bố tôi đề nghị chú hát. Đáng ngạc nhiên là bố tôi, một người vốn không sợ trời không sợ đất, lại rụt rè đề nghị chú việc đó. Sau này, chúng tôi có cảm giác, bố lúc đó tỏ ra khiêm nhường đối với chú. Đó là sự ngưỡng mộ trước một con người có tài năng độc nhất vô nhị.
Chú Avdeev cất tiếng hát. Một chất giọng nam trầm mượt như nhung lan tỏa khắp toa tàu, tựa như lấp đầy mọi khoảng trống xung quanh. Không còn nghe thấy tiếng bánh xe gõ nhịp hay nghiến trên đường ray, những cảnh vật sau các ô cửa sổ cũng biến mất. Giống như đôi khi người ta vẫn nói - "rơi vào một trạng thái khác". Có gì đó giống như vậy đã xảy đến với những hành khách đang ngồi trong toa tàu.
Đến tận bây giờ tôi vẫn nghĩ rằng lúc thiếu thời mình đã thật may mắn được nghe một ca sĩ không chỉ có giọng ca cực kỳ tuyệt vời mà còn có một tâm hồn giàu tình cảm và khoáng đạt - điều làm nên sự khác biệt giữa những nghệ sỹ vĩ đại và những kẻ bất tài. Có lần, tôi hỏi bà tôi: "Tại sao lúc chú Kolia hát, mây lúc thì ngừng trôi lúc thì bay càng nhanh?". Bà suy nghĩ một lúc rồi trả lời tôi như với một người trưởng thành: "Đúng là như vậy! Vì giọng hát của chú ấy làm cho tâm hồn chúng ta lúc thì như đông cứng lại lúc thì như vươn lên với Chúa trời. Chú ấy có tài năng đặc biệt như vậy đấy!".
Ít lâu sau xảy ra một chuyện khiến cho những người xung quanh nhìn nhận tài năng ca hát của Avdeev với ánh mắt kinh ngạc.
Ở phía bên kia con đường đến trường học, nơi gia đình các sĩ quan sinh sống, có ngôi nhà nhỏ của một bà lão Do thái - dì Peysya với cô con gái rất xinh đẹp tên là Roza. Cô Roza còn trẻ nhưng tóc đã bạc trắng và bị câm. Khi quân Đức sát hại người Do thái tại một thị trấn nhỏ ở Belarus, những hàng xóm người Nga đã may mắn cứu sống Roza bằng cách giấu cô dưới tầng hầm, bịt chặt miệng bằng khăn mặt để cô không thể kêu la được. Roza đã nghe thấy tiếng hai đứa con sinh đôi gọi cô trong ngôi nhà cháy bên cạnh. Người mẹ bất hạnh sống sót nhưng trở thành người câm và tóc bạc trắng.
Một chiều mùa hè, khi Roza mang mẹt kẹo ngào đường đến khu nhà chúng tôi, chú Kolia ngồi trên xe đẩy lăn ra ngoài hiên. Lúc đó, chú ấy đã chính thức được bổ nhiệm làm trưởng phụ trách khu nhà sĩ quan và được nhận lương, thực ra chú còn là một thành viên trong gia đình tôi. Mấy người phụ nữ đặt trước mặt chú một chậu anh đào và lũ trẻ con chúng tôi xúm xít xung quanh còn chú đang kể cho chúng tôi nghe câu chuyện gì đó rất buồn cười. Khi nhìn thấy chị Roza tóc bạc, chú ngừng kể và quan sát khuôn mặt chị một cách cực kỳ kỹ lưỡng. Sau đó, chú cất tiếng hát. Chú hát mà không yêu cầu mang đến cây đàn phong cầm như thường lệ. Tôi nhớ, chú hát một bài hát gì đó lạ lắm về một con thiên nga bất hạnh. Những con thiên nga con của nó bị những người thợ săn độc ác bắn chết để chơi đùa với nhau.
Giọng ca trầm hùng của chú lúc thì tuôn trào ai oán, lúc thì rì rầm đau buồn và giận dữ. Ngước nhìn lên, tôi thấy, tất cả các cửa sổ của ngôi nhà lớn đều mở toang và trong đó mọi người im lặng như hóa đá. Còn cô Roza miệng kêu ú ớ trông rất sợ hãi, sau đó cô quỳ sụp xuống, giơ hai tay lên trời, từ miệng cô bật ra những tiếng the thé, non nớt và điên dại vì đau khổ. Người mẹ bất hạnh khẩn cầu Chúa trời bằng ngôn ngữ Do thái. Vài phụ nữ định lao vào giữ cô nhưng chú đã dùng tay ra dấu cho họ đứng im. Chú vẫn cứ tiếp tục hát, cô Roza la hét nhỏ dần nhỏ dần cho đến khi nằm vật xuống khóc. Người ta vội nâng cô dậy, đưa cô vào trong nhà cho bác sỹ của trung đoàn chăm sóc.
Còn chúng tôi, những đứa trẻ mới lớn sau chiến tranh đứng ngây người im lặng trong bóng đêm ấm áp phương nam. Chúng tôi hiểu rằng, mình vừa trở thành những chứng nhân của một phép nhiệm màu mà suốt đời sẽ không bao giờ quên. Sáng hôm sau dì Peysya đến nhà chú, dì quỳ xuống trước mặt chú và hôn tay chú. Và tất cả mọi người cùng bật khóc. Thời thơ ấu của mình, chúng tôi cũng thường thấy cả đàn ông cũng khóc. "Tại sao người lớn lại khóc?" - tôi hỏi mẹ. "Đấy là nước mắt của chiến tranh" - mẹ trả lời tôi. - "Lúc chiến tranh chúng ta chẳng có thời gian để khóc và cũng không nên khóc. Lúc đó cần phải vững vàng để cứu bọn trẻ con. Nhưng bây giờ nước mắt mới tuôn rơi. Thế hệ các con sẽ không phải khóc, chỉ có mừng vui thôi".
Phải nói rằng, tôi xót xa khi nhớ lại những lời mẹ nói. Tôi hiếm khi vui mừng.
Đang là năm 1948. Và một chuyện gì đó kỳ lạ đang diễn ra mà bọn trẻ con chúng tôi không hiểu được. Những người thương binh đột nhiên biến mất khỏi thành phố, trong khi trước đó có rất nhiều. Những người mù chống gậy trên phố, nhưng những người không còn tay và không còn chân như chú Kolia cũng thực sự đi đằng nào hết. Những người lớn thì vừa sợ hãi vừa công phẫn thì thào với nhau rằng, đêm đêm người ta lùng bắt thương binh và đưa đi đâu không rõ. Một đêm, tôi nghe thấy cha mẹ nói nhỏ với nhau rằng đành phải che giấu chú Kolia, gửi chú đến chỗ những người họ hàng của mẹ ở một làng xa của người Cô dắc.
... Nhưng ở đây đã diễn ra một sự kiện định sẵn số phận sau này của chú Nikolai Avdeev và trở thành một tình tiết đáng nhớ trong cuộc đời tôi. Năm 1948, đất nước vừa chiến thắng phát xít Đức trang trọng tổ chức 800 năm thành lập Matxcova. Cờ và biểu ngữ giăng khắp nơi, nhiều hoạt động nhân dịp lễ được tổ chức. Một trong những hoạt động như vậy chắc chắn là buổi ca nhạc tổ chức ở Nhà sĩ quan. Có một việc xảy ra là nguyên soái Georgy Konstantinovich Zhukov trong chuyến thanh tra nhân tiện ở lại nguyên một ngày.
Người lớn gọi ông một cách ngắn gọn và trịnh trọng là "chính Nguyên soái". Đúng là trịnh trọng như vậy. Bố giải thích, tôi đã nhìn thấy ông ấy trên phim, khi nào, như thế nào và tất cả mọi thứ, tôi đã nhiều lần xem duyệt binh nhân ngày chiến thắng. "Đấy, ông ấy cưỡi ngựa, con nhớ chưa?" - bố nói. Nói thật, tôi nhớ rất rõ con ngựa, lần nào tôi cũng ngạc nhiên, không hiểu sao chân nó lại quấn xà cạp. Tôi cũng không để ý lắm đến ông nguyên soái. Các sĩ quan được thông báo rằng, nguyên soái Zhukov sẽ tham dự buổi ca nhạc chung của các đơn vị quân đội. Chiều tối nào cũng tổ chức diễn tập và ở một trong các buổi đó người ta quyết định tôi sẽ là người tặng hoa cho nguyên soái. Tôi không thể nói rằng, khác với mọi người trong gia đình, điều đó làm tôi vui mừng. Đúng ra là tôi không thích. Tôi thực sự không muốn đi xem ca nhạc vì tôi đã nhiều lần xem và nghe rồi. Đến bây giờ, tôi không bao giờ hiểu được, tại sao người ta lại chọn đúng tôi. Chắc chắn là vì hình thức bề ngoài như búp bê trái ngược với tính cách như con trai của tôi. Cái máy khâu "Singer" cũ của nhà tôi lạch cạch hai ngày.
Mọi người hối hả may cho tôi chiếc váy bồng từ một chiếc dù bỏ đi. Mẹ tôi khâu. Bà tôi đang vội vã nấu ăn cho mọi người thì bất ngờ giữa ban ngày bà quỳ xuống và cầu nguyện trước bức tượng Thánh tử đạo George. Đây là bức tượng thánh rất đẹp và duy nhất được giữ lại từ bức bình phong lớn của bà. Đó là một bức tượng của gia đình tôi được truyền lại theo dòng dõi sĩ quan Cô dắc cũ. Nhiều thế hệ đã cầu nguyện trước bức tượng đó và các con trai trong nhà tôi đều được đặt tên là Georgy và Viktor. Tôi ngạc nhiên khi nghe thấy bà liên tục cầu nguyện cho chú Kolia.
Trong ngày lễ trọng thể, mọi người trang điểm cho tôi giống như búp bê Malvina, đưa cho tôi một bó hoa lay dơn đã được vảy nước và bắt tôi nhắc đi nhắc lại 10 lần lời chào mừng vị khách cao quý. Kết quả là khi 3 chiếc xe hơi tiến lại và từ chiếc xe đi đầu bước xuống một người to lớn có khuôn mặt có vẻ nghiêm khắc và đeo các huy chương ngôi sao anh hùng trên áo quân phục, thì tôi quên sạch sành sanh.
Và tôi nói liền một lèo: "Chào đồng chí Zhukov! Tất cả chúng tôi chúc mừng đồng chí! Xin chúc đồng chí sống lâu muôn tuổi cùng với con ngựa đẹp của mình!". Xung quanh mọi người bật cười như pháo rang. Nhưng cười to nhất, cười đến chảy nước mắt lại chính là nguyên soái. Một người trong đội cận vệ của nguyên soái đỡ lấy bó hoa trên tay tôi, còn ông vẫn vừa cười vừa nói: "Bây giờ tôi trông thấy cô bé rồi. Nào, đi cùng tôi!". Và ông đưa tay cho tôi như với một người lớn và dẫn tôi lên cầu thang vào khoang ghế.
Trong khoang có các ghế tựa và một chiếc ghế bành bọc nhung dành cho vị khách quý. Nhưng ông cười và nói: "Ghế bành dành cho quý cô bé nhỏ này!" và đặt tôi ngồi vào ghế bành, còn ông thì kéo chiếc ghế tựa của mình đến gần lan can. Tôi sợ hãi và tuyệt vọng vì mình đã nói không đúng như đã được căn dặn và vì xấu hổ nên tôi co dúm người trên ghế bành như một cục bông. "Cháu tên gì?" - nguyên soái hỏi tôi. "Cháu tên là Ludmila" - tôi nói không ra hơi. "Nghĩa là bác có thể gọi cháu Lyusenka!" - ông vuốt mái tóc rất dài của tôi.
Buổi ca nhạc bắt đầu. Trên sân khấu trình diễn điệu múa dân gian Ukraina, hát các bài ca mặt trận nổi tiếng và các điệu múa. Lúc đó tôi chỉ có một ước muốn: chạy khỏi chỗ này và trốn vào một góc tối nào đó. Nhưng đến cả nguyên soái tôi còn chẳng dám ngước lên nhìn.
Nhưng tôi bất ngờ nhảy dựng lên vì kinh ngạc. Trên sân khấu, bố tôi xuất hiện thay cho người dẫn chương trình. Bằng một giọng nói có vẻ căng thẳng khác thường, bố tôi giới thiệu: "Sắp biểu diễn cho các quý vị là người đã được tặng thưởng các huy chương (liệt kê các loại huy chương) và cũng là người đã được tặng thưởng huân chương Lenin, chiến sĩ xe tăng, trung sĩ Nikolai Avdeev!". Đó chính là chú Kolia yêu quý của chúng tôi. Cả khán phòng im lặng.
Bằng trí óc trẻ thơ của mình, tôi không thể hiểu được bản chất của sự việc đang diễn ra. Nhưng các khán giả ngồi xem ngay lập tức hiểu rằng, con người cụt hai chân trên sân khấu là sự thách thức quyền lực. Thách thức thói đạo đức giả tàn nhẫn trong cách đối xử với những người đã bảo vệ tổ quốc đồng thời bảo vệ cả cái chính quyền này. Cái chính quyền đang rũ bỏ một cách tàn nhẫn và vô lương tâm những người bị chiến tranh làm cho tàn phế. Sau này khi lớn lên, tôi mới hiểu những điều đó.
Đúng lúc đó, hai sĩ quan khiêng lên sân khấu một chiếc ghế bành bọc nhung như của tôi cùng với chú Kolia và chiếc đàn phong cầm trên tay. Và chú cất tiếng hát: "Ôi, em là đêm thương nhớ, đêm đen thăm thẳm...". Giọng chú không phải là hát. Thoạt nhiên, tiếng khóc của chú rất khẽ, nhưng sau đó bật lên thành tiếng nức nở vì cô đơn và tủi hờn. Cả khán phòng im phăng phắc. Trong khán phòng hôm đó không ai không mất người thân của mình trong chiến tranh.
Nhưng khán giả chưa kịp vỗ tay vì người nghệ sỹ đã cất tiếng: "Các đồng chí! Trong các trận chiến từ xa xưa, cha ông chúng ta đã bảo vệ tổ quốc và thủ đô Matxcova của chúng ta. Một trăm năm trước thời chúng ta, cha ông chúng ta đã hy sinh vì tổ quốc và Matxcova! Chúng ta hãy cùng tưởng nhớ họ!". Và chú lại cất tiếng hát: "Matxcova cháy bùng, Matxcova thét gào...". Dường như, trước mắt mọi người đang diễn ra cảnh tượng những người chiến thắng cuộc chiến năm 1812 đội mũ saco lấp lánh bước đi. Cả khán phòng đồng loạt và nhịp nhàng vỗ tay hòa theo đoạn điệp khúc của bài ca.
Trong lô ghế của nguyên soái bắt đầu có những tiếng thán phục thốt lên. Cuối cùng tôi cũng lấy lại được cam đảm và ngước nhìn nguyên soái Zhukov. Ông nắm chặt tay vào lan can và ngả người vào tựa ghế. Sự kinh ngạc và cảm phục hiện rõ trên nét mặt ông. Nhưng tiếng đàn phong cầm đột nhiên ngừng bặt. Bàn tay người nghệ sĩ bất lực buông rơi trên phím đàn. Avdeev quay về phía lô ghế của nguyên soái và hát qua micro không đệm đàn trong không gian hoàn toàn tĩnh lặng: "Số phận đùa bỡn con người. Số phận luôn chớ trêu...". Cả khán phòng như nổ tung vì phấn khích. Hoa chất thành đống lớn trên sân khấu.
Nguyên soái Zhukov hơi ngoảnh lại và ra lệnh cho người nào đó đứng sau: "Truyền lệnh. Tìm hiểu người này!". Cuối cùng tôi cũng trấn tĩnh lại, tôi chạm tay vào đầu gối ông và nói: "Cháu biết mọi chuyện về chú Kolia!". "Vậy cháu kể đi!" - ông trả lời và cúi thấp xuống.
Nhưng lúc đó đã vang tiếng đàn dương cầm và giọng hát thần tiên ấy lại tràn ngập cả khán phòng, vừa trang trọng và đau buồn: "Em hãy vươn lên, bình minh của anh, bình minh cuối cùng của anh...". Không kìm nén được cảm xúc, mọi người đứng dậy, nhiều người bật khóc.
Tôi lại ngước nhìn nguyên soái. Ông vẫn ngồi như cũ, tựa hẳn người vào lưng ghế, tay vươn ra bám chặt lan can. Nhưng mắt ông nhắm chặt, khuôn mặt ông nhợt nhạt và trở nên buồn bã và mệt mỏi. Giọng nam trầm của Avdeev rền rĩ như đớn đau và khẩn cầu: "Xin chúa, người hãy cho con sức mạnh!". Đúng khoảng khắc ấy, từ nhà thờ gần đó vọng lại những tiếng chuông ngân. Cả khán phòng ồn ào như ong vỡ tổ. Nguyên soái Zhukov như chợt thức tỉnh và cất tiếng: "Thật không thể tin được!", ông lại cúi đầu về phía tôi và hỏi tôi một cách nghiêm túc: "Thế cháu biết những gì về chú Kolia?".
Tôi vội vã kể: "Bố cháu tìm thấy chú ấy ở ga. Bây giờ chú ấy làm phụ trách nhà tập thể và như người thân trong gia đình cháu. Ôi, bác biết không, chú ấy rất hiền và cái gì cũng biết làm!". Khuôn mặt nguyên soái vẫn đợm buồn và mệt mỏi. "Cháu bé, theo cháu, bây giờ cần phải làm gì cho chú ấy? - ông hỏi tôi như hỏi một người lớn. Tôi nghĩ một chút rồi nói: "Cây đàn là một bác sĩ tặng chú ấy, nó cũ quá rồi. Cần mua cho chú ấy một cây đàn mới! Lúc đó thì cây đàn này đem vứt đi" - tôi lặp lại y như lời bà tôi nói. - "Điều quan trọng là cần phải tìm một chỗ nào cho chú Kolia ở. Cả nhà cháu ở trong nhà kho quân trang, còn chú ấy nương náu trong bếp gần chỗ để xoong nồi!".
Nguyên soái Zhukov lặng nghe tôi nói, khuôn mặt ông căng thẳng. Bỗng nhiên ông hỏi tôi: "Vậy còn cháu muốn gì?". Tôi hiểu ngay là mình phải nắm lấy cơ hội. "Cháu không cần gì cả. Cháu cảm thấy như vậy là hạnh phúc rồi. Bố cháu đã còn sống trở về. Nhưng Ninochka, bạn cháu, cần được đưa vào trường trẻ em đặc biệt, vì bạn ấy bị câm. Lưỡi bạn ấy bị bọn Đức cắt, tay bạn ấy bị chúng dùng sắt nung đỏ thích dấu thập ngoặc để bắt bố mẹ bạn ấy là những người hoạt động bí mật phải khai báo. Nhưng họ không khai ra ai cả và chúng xử bắn họ". Tôi không nhìn thấy khuôn mặt nguyên soái. Đột nhiên, ông nhấc bổng tôi lên và ôm chặt tôi. Có lúc, tôi nghe rõ tiếng đập mạnh mẽ của trái tim vị nguyên soái dưới lớp áo quân phục đeo những ngôi sao anh hùng. Sau đó, ông thả tôi xuống đất và nói: "Ta đi thôi!".
Chú Kolia ngồi phía dưới, trên chiếc ghế đivan nhỏ và nhìn theo nguyên soái và tôi đi xuống chỗ chú, tôi có cảm giác khuôn mặt chú vẫn mệt mỏi và buồn bã như trước. Sau đó, nguyên soái lại gần và ngồi xuống cạnh chú. Họ cùng im lặng một lúc. Sau đó, nguyên soái Zhukov nói trước. Chú Nikolai không kể lại chuyện gì mà họ - một người lính cụt hai chân và một nguyên soái đeo những huy chương anh hùng - đã nói, nhưng bà tôi nói, suốt đêm hôm sau chú thức trắng.
Gia đình tôi cùng chú Kolia đi xe về nhà. Trên tay tôi giữ khư khư hai túi kẹo to, trên ghế bên là hai bộ nước hoa Roma sang trọng. Ngày hôm sau, chú Nikolai Avdeev được đưa tới bộ tổng tham mưu, ở đó người ta trịnh trọng trao cho chú một cây đàn accocdeon lấp lánh màu huyết dụ, quan trọng nhất là một phong bì kèm theo phần thưởng là một căn phòng trong một ngôi nhà lớn và đẹp. Căn phòng của chú cũng rất lớn, có cửa sổ to và sàn lát ván.
Chú Nikolai Avdeev tốt nghiệp trường nhạc và làm phụ trách nhà văn hóa đến cuối đời. Chú mất sớm khi mới 47 tuổi. Chú có hai con sinh đôi, sau này trở thành những bác sỹ giỏi. Họ không thừa hưởng được giọng hát diệu kỳ của chú. Chú mang theo giọng hát ấy sang thế giới bên kia.
Từ Kiev có người xuống đón Ninochka và đưa cô vào một trường nội trú rất tốt, người ta nói rằng, ở đó cô được mọi người yêu quý. Nhưng Ninochka không sống được đến 20 tuổi. Tôi không biết vì sao, có lẽ trái tim cô gục ngã vì những điều khủng khiếp mà cô đã trải qua, cũng có thể là, như bà tôi nói, bố mẹ cô - những người tuẫn tiết - đã mong chờ và gọi cô đi.
Bố tôi không hiểu vì sao được cử đi học khóa bồi dưỡng cán bộ chính trị ở Smolensk. Sau đó, ông phục vụ ở trường quân sự và, tôi nhớ là, ông luôn quan tâm đến các học viên mất cha mẹ. Nhiều người trong số họ nay đã về hưu, tóc đã bạc trắng nhưng vẫn nhớ đến ông với tình cảm yêu thương và kính trọng...
Người dịch: Dương Nguyên Khải
