Thay mặt Bộ Chính trị, ngày 22/8/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký ban hành Nghị quyết số 71 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo (Nghị quyết số 71-NQ/TW). Trong đó, Bộ Chính trị yêu cầu rà soát, đánh giá việc triển khai thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông; bảo đảm cung cấp một bộ sách giáo khoa thống nhất toàn quốc, phấn đấu tới năm 2030 cung cấp miễn phí sách giáo khoa cho tất cả học sinh.

Phát triển giáo dục đào tạo, thống nhất một bộ sách giáo khoa, mục tiêu 2030 miễn phí sách cho học sinh

Trong quá trình phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn coi giáo dục và đào tạo, cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Nhiều chủ trương, chính sách lớn đã được ban hành, thúc đẩy giáo dục và đào tạo đổi mới, phát triển mạnh mẽ, đạt được những kết quả quan trọng. Việt Nam thuộc nhóm 21 quốc gia sớm đạt mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc đến năm 2030 về giáo dục chất lượng.

Tổng Bí thư Tô Lâm và các em học sinh xuất sắc 2024-2025. (Ảnh B.GDĐT)

Từ tình hình thực tế, Bộ Chính trị yêu cầu tập trung quán triệt, thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các nội dung sau:

I. Quan điểm chỉ đạo 

1. Nhận thức sâu sắc, đầy đủ và thực hiện nhất quán quan điểm giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, quyết định tương lai dân tộc. Phát triển giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Nhà nước giữ vai trò định hướng chiến lược, kiến tạo phát triển, bảo đảm nguồn lực và công bằng trong giáo dục; bảo đảm đủ trường, đủ lớp, đủ giáo viên đáp ứng nhu cầu học tập của người dân. Toàn xã hội có trách nhiệm chăm lo, tham gia đóng góp nguồn lực và giám sát phát triển giáo dục.

2. Phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc, xây dựng xã hội học tập, khơi dậy mạnh mẽ các phong trào thi đua trong Nhân dân và trong toàn xã hội về học tập, tự học tập, học tập không ngừng, học tập suốt đời vì sự nghiệp phát triển nhanh và bền vững của đất nước, vì tương lai của dân tộc.

3. Phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục, đào tạo. Người học là trung tâm, là chủ thể của quá trình giáo dục và đào tạo; nhà trường là nền tảng, nhà giáo là động lực, quyết định chất lượng giáo dục, đào tạo. Thực hiện phương châm "thầy ra thầy, trò ra trò" trên các mặt đạo đức, nhân cách, tri thức; kiên quyết chấn chỉnh tiêu cực trong giáo dục, coi trọng danh dự người thầy, tôn vinh người thầy trong xã hội.

Giáo dục bảo đảm hài hoà giữa tính toàn dân và tinh hoa, toàn diện và chuyên sâu, dân tộc và toàn cầu. Phát triển giáo dục trên nền tảng văn hóa, giá trị truyền thống dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa nhân loại, chuẩn mực quốc tế; giáo dục, đào tạo công dân Việt Nam trở thành công dân toàn cầu.

4. Giáo dục, đào tạo phải bảo đảm "học đi đôi với hành", "lý thuyết gắn liền với thực tiễn", "nhà trường gắn liền với xã hội". Giáo dục mầm non, phổ thông là nền tảng hình thành nhân cách, phát triển phẩm chất và năng lực người học. Giáo dục nghề nghiệp giữ vai trò then chốt trong phát triển lực lượng lao động kỹ năng cao. Giáo dục đại học là nòng cốt phát triển nhân lực trình độ cao, nhân tài, thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

5. Đột phá phát triển giáo dục và đào tạo phải bắt đầu từ đổi mới tư duy, nhận thức và thể chế. Tạo đột phá về nguồn lực, động lực và không gian mới cho phát triển giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng; bảo đảm Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, lấy đầu tư công dẫn dắt, thu hút nguồn lực xã hội cho hiện đại hoá toàn diện hệ thống giáo dục quốc dân.

6. Giáo dục công lập là trụ cột, giáo dục ngoài công lập là thành phần quan trọng cấu thành hệ thống giáo dục quốc dân; xây dựng nền giáo dục mở, liên thông, bảo đảm cơ hội học tập công bằng, bình đẳng cho mọi người, đáp ứng nhu cầu xã hội, thúc đẩy học tập suốt đời.

 Rà soát, thống nhất một bộ sách giáo khoa cho học sinh, thì đây là định hướng và bước điều chỉnh phù hợp để phát triển giáo dục và đào tạo. (Ảnh TTXVN)

II. Mục tiêu

1. Mục tiêu đến năm 2030

- Mở rộng tiếp cận công bằng, nâng cao chất lượng giáo dục mầm non và phổ thông đạt trình độ tiên tiến trong khu vực châu Á. Xây dựng mạng lưới trường lớp cơ bản đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh thuộc mọi đối tượng, vùng miền; có ít nhất 80% trường phổ thông đạt chuẩn quốc gia. Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi và giáo dục bắt buộc hết trung học cơ sở; ít nhất 85% người trong độ tuổi hoàn thành cấp trung học phổ thông và tương đương, không có tỉnh, thành phố đạt dưới 60%. Đạt kết quả bước đầu về nâng cao năng lực công nghệ, trí tuệ nhân tạo và năng lực tiếng Anh ở bậc phổ thông. Chỉ số giáo dục đóng góp vào chỉ số phát triển con người (HDI) đạt trên 0,8, trong đó chỉ số bất bình đẳng giáo dục giảm xuống dưới 10%.

- Xây dựng, đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu Việt Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Mạng lưới cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp được sắp xếp phù hợp và đầu tư nâng cấp; phấn đấu 100% cơ sở giáo dục đại học và ít nhất 80% cơ sở giáo dục nghề nghiệp đạt chuẩn quốc gia, 20% cơ sở được đầu tư hiện đại tương đương các nước phát triển ở châu Á. Tỉ lệ người trong độ tuổi theo học các trình độ sau trung học phổ thông đạt 50%. Tỉ lệ người lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên đạt 24%. Tỉ lệ người học các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật và công nghệ đạt ít nhất 35%, trong đó có ít nhất 6.000 nghiên cứu sinh, 20.000 người học các chương trình tài năng. Chỉ số vốn con người và nghiên cứu đóng góp vào chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) ngang bằng các nước có thu nhập trung bình cao.

- Nâng tầm các cơ sở giáo dục đại học thực sự trở thành các trung tâm nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp của quốc gia và của các vùng. Mạng lưới cơ sở giáo dục đại học đóng vai trò nòng cốt trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của các vùng và địa phương, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài đáp ứng yêu cầu các ngành, lĩnh vực trọng điểm; tuyển dụng ít nhất 2.000 giảng viên giỏi từ nước ngoài. Tăng bình quân 12%/năm đối với số công bố khoa học quốc tế, nguồn thu từ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo; 16%/năm đối với số đăng ký sáng chế, văn bằng bảo hộ sáng chế. Phấn đấu ít nhất 8 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 200 đại học hàng đầu châu Á, ít nhất 1 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới trong một số lĩnh vực theo các bảng xếp hạng quốc tế uy tín.

2. Mục tiêu đến năm 2035

Hệ thống giáo dục và đào tạo tiếp tục được hiện đại hóa, có bước tiến mạnh, vững chắc về tiếp cận, công bằng và chất lượng. Hoàn thành phổ cập trung học phổ thông và tương đương; chỉ số giáo dục đóng góp vào chỉ số HDI đạt trên 0,85; chỉ số vốn con người và nghiên cứu đóng góp vào chỉ số GII đạt trên mức bình quân của các nước có thu nhập trung bình cao. Phấn đấu ít nhất 2 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới trong một số lĩnh vực theo các bảng xếp hạng quốc tế uy tín.

3. Tầm nhìn đến năm 2045

Việt Nam có hệ thống giáo dục quốc dân hiện đại, công bằng và chất lượng, đứng vào nhóm 20 quốc gia hàng đầu thế giới. Mọi người dân có cơ hội học tập suốt đời, nâng cao trình độ, kỹ năng và phát triển tối đa tiềm năng cá nhân. Nguồn nhân lực chất lượng cao, nhân tài khoa học, công nghệ trở thành động lực và lợi thế cạnh tranh cốt lõi của đất nước, góp phần đưa Việt Nam thành nước phát triển, có thu nhập cao. Phấn đấu ít nhất 5 cơ sở giáo dục đại học thuộc nhóm 100 đại học hàng đầu thế giới trong một số lĩnh vực theo các bảng xếp hạng quốc tế uy tín.

Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Phạm Ngọc Thưởng, trả lời và cung cấp thông tin trước các phóng viên báo chí tại Họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 8/2025. (Ảnh: VGP)

Tại họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 8/2025, Thứ trưởng thường trực Bộ GD&ĐT Phạm Ngọc Thưởng đã trả lời câu hỏi của phóng viên về việc triển khai Nghị quyết 71/NQ-TW của Bộ Chính trị. 

Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Phạm Ngọc Thưởng cho biết, ngày 22/8/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm thay mặt Bộ Chính trị ký ban hành Nghị quyết 71 về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Trong Nghị quyết có 6 quan điểm, 3 nhóm mục tiêu và 8 nhóm nhiệm vụ giải pháp hết sức rõ ràng, bao quát. Về quan điểm, Nghị quyết bao trùm toàn diện và đặc biệt nổi bật. 

Thứ trưởng cho rằng, lâu nay Đảng và Nhà nước luôn quan tâm tới giáo dục – đào tạo và khẳng định đây là quốc sách hàng đầu. Tuy nhiên, tác động tới tương lai, vận mệnh của đất nước, dân tộc thì trong các nghị quyết trước đây chưa được nêu rõ. "Điểm mới của Nghị quyết 71 là lần đầu tiên khẳng định giáo dục – đào tạo không chỉ là quốc sách hàng đầu mà còn là nhân tố quyết định vận mệnh của dân tộc. Đây là điểm nhấn hết sức nổi bật", ông cho biết. 

Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Phạm Ngọc Thưởng cũng chia sẻ thêm, trong phát biểu chỉ đạo tại lễ khai giảng toàn quốc ngày hôm qua, Tổng Bí thư Tô Lâm tiếp tục nhấn mạnh điều này trong diễn văn "đầy cảm xúc", được cả nước hân hoan đón nhận. "Quan điểm lần này rất bao trùm, nhưng có một điều đặc biệt: Tổng Bí thư chỉ đạo đột phá giáo dục phải bắt đầu từ đổi mới tư duy, nhận thức và thể chế. Đây là ba yếu tố then chốt", Thứ trưởng nhấn mạnh.  

Hiện, các loại Sách giáo khoa trên trang taphuan.nxbgd.vn do NXB Giáo dục Việt Nam trực tiếp quản lý và vận hành. (Ảnh chụp màn hình)

Trước đó, ngày 28/11/2014, Nghị quyết 88/2014/QH13 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông chủ trương một chương trình, nhiều bộ sách và xã hội hóa biên soạn sách giáo khoa, bỏ độc quyền xuất bản. Việc này nhằm huy động nguồn lực xã hội, góp phần nâng cao chất lượng SGK, chống độc quyền trong lĩnh vực này và phù hợp với xu hướng quốc tế. Điều này cũng phù hợp với định hướng xây dựng nền giáo dục mở, “đa dạng hoá tài liệu học tập” trong Nghị quyết 29 của Ban Chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

Trong đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) được giao tổ chức biên soạn một bộ với kinh phí 16 triệu USD từ nguồn vốn vay của Ngân hàng Thế giới.

Sau thời gian triển khai, Nghị quyết 88 còn chưa đạt được ở góc độ Bộ GD&ĐT chưa tổ chức được 1 bộ sách giáo khoa (SGK) vì nhiều lý do. Quốc hội sau đó đồng ý, nếu mỗi môn học đã có ít nhất một bộ SGK được thẩm định, phê duyệt thì không dùng ngân sách để biên soạn sách của môn đó nữa.

Từ năm học 2020-2021, Chương trình Giáo dục phổ thông (GDPT) 2018 được triển khai lần đầu đối với lớp 1 và thực hiện “cuốn chiếu".

Chương trình GDPT 2018 đã áp dụng được 5 năm và hiện tại, tất cả học sinh phổ thông đã sử dụng SGK mới. Hiện nay, có 3 bộ SGK theo chương trình mới được các trường lựa chọn giảng dạy. Theo đó, tùy điều kiện thực tế, nhu cầu, thì các trường được chọn sách để giảng dạy. Với khoảng 20 triệu học sinh cả nước, 12 khối lớp GDPT, hàng trăm triệu bản sách đã được xuất bản.

Việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá giáo dục và đào tạo là một dấu mốc chiến lược, góp phần tạo ra những bước ngoặt mới về tư duy, nhận thức và hành động trong việc đưa GD&ĐT phát triển lên tầm cao mới. Một trong những nội dung đề cập trong nghị quyết này được dư luận quan tâm là Bộ Chính trị đưa ra chủ trương: “Bảo đảm cung cấp một bộ sách giáo khoa thống nhất toàn quốc, phấn đấu tới năm 2030 cung cấp miễn phí SGK cho tất cả học sinh”. Đây là chủ trương quyết sách lớn, đúng đắn, sâu sắc, sát hợp tình hình thực tế hiện nay và rất được nhân dân quan tâm mong đợi.

(* Xem thêm: Toàn văn Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. tải tại đây )

Đại Lộc