Và thành phố chỉ biết về chiến công này vào giữa những năm 1960, khi các ngôi nhà gỗ cũ ở Pargolovo bị phá bỏ để xây dựng nhà ở mới. Trong sân một ngôi nhà gỗ đã di dời ở ngoại ô phía bắc, các công nhân đã phát hiện ra một thứ đáng kinh ngạc. Một ngôi mộ, trên đó vươn cao một tấm bia.
Một bức tượng chó bằng gỗ với một bức ảnh đính kèm. Trong ảnh là một chú chó với đôi mắt to và thông minh. Và dòng chữ bên dưới bức ảnh: "Gửi người bạn thân yêu Trezor (1939–1945) từ những người chủ đã được nó cứu sống." Vào thời điểm đó, mọi cư dân Leningrad trên 20 tuổi đều là người tham gia hoặc nhân chứng của cuộc chiến vừa qua, và họ đã không phá hủy ngôi nhà trong lúc nóng giận, mà thông qua bộ phận đăng ký hộ khẩu bắt đầu tìm kiếm các cư dân cũ của ngôi nhà.
Một tuần sau, một cụ già tóc bạc đã đến sân của ngôi nhà sắp bị phá và cẩn thận tháo tấm ảnh chú chó khỏi tấm bia. Ông nói với các công nhân đang vây quanh mình: "Đây là Trezor của chúng tôi! Vị cứu tinh đã cứu đói chúng tôi và con cái chúng tôi. Tấm ảnh của nó sẽ được treo ở vị trí trang trọng nhất trong căn hộ mới."
Vào mùa đông đầu tiên của cuộc phong tỏa năm 1941-1942, hầu hết vật nuôi trong các gia đình ở Leningrad đều chết. Nhiều con trở thành nạn nhân của những kẻ hành hạ súc vật, bị thúc đẩy bởi cơn đói khủng khiếp. Những con khác, được những người chủ đói khát cố gắng hết sức cứu sống, bằng cách chia sẻ miếng ăn cuối cùng. Thường thì những con mèo, con chó gầy gò chết vì kiệt sức trong các căn hộ bên cạnh những thi thể nguội lạnh của con người. Người và vật đã sống cùng nhau, cùng đón nhận chiến tranh và cuộc phong tỏa, và chết lịm bên nhau trong những căn hộ đóng băng. Nạn đói cũng ập đến Pargolovo, đến ngôi nhà gỗ cho bốn gia đình. Trong mỗi nhà đều có trẻ em. Người bạn được yêu thích chung của cả sân là Trezor - một chú chó lanh lợi và vui tươi, lai giữa chó cỏ và chó săn. Và rồi một buổi sáng, chủ của nó nhận ra rằng không còn gì để đổ vào bát cho con chó ngoài nước. Con chó đứng yên một lúc, suy nghĩ, gãi sau tai bằng chân. Rồi biến mất. Mọi người thở phào nhẹ nhõm - họ không phải nhìn vào đôi mắt đói khát của con chó nữa. Nhưng Trezor không biến mất.
Đến giờ ăn trưa, nó trở về nhà, ngậm một con thỏ béo vừa bắt được. Đủ cho bữa trưa của cả bốn gia đình. Phần lòng, chân và đầu được trao cho kẻ kiếm mồi có đuôi. Trezor bắt đầu mang con mồi về nhà gần như hàng ngày. Những cánh đồng ngoại ô của các nông trường bị bỏ hoang chứa đầy vụ mùa chưa thu hoạch - mặt trận đã áp sát thành phố vào tháng Chín. Bắp cải, cà rốt, khoai tây, củ cải đường vẫn còn trên luống. Thỏ tha hồ sinh sôi. Chúng sinh sản rất nhiều khi đó...
Và giờ đây, gần như mỗi ngày, các gia đình đều nấu nước dùng từ thịt thỏ bổ dưỡng. Phụ nữ học cách may găng tay mùa đông ấm áp từ da thỏ, đổi chúng lấy thuốc lá từ những người không hút thuốc, và sau đó đổi phần thuốc lá lấy thức ăn. Những chuyến đi săn của Trezor đã gợi ý một cách để có thể sống sót qua nạn đói: mấy đứa trẻ cùng với chiếc xe trượt tuyết nhỏ đi đến những cánh đồng phủ đầy tuyết và đào bắp cải, khoai tây, củ cải đường. Dù có hơi bị đông cứng, nhưng vẫn là rau củ. Vì vậy, khẩu phần bánh mì của những người bị phong tỏa không phải là nguồn thức ăn duy nhất đối với các chủ nhân của Trezor. Kết quả từ lòng trung thành của chú chó (nó có thể không mang con mồi về, tự bắt tự ăn) là không ai trong ngôi nhà chết trong thời kỳ phong tỏa. Đêm giao thừa ngày 31 tháng 12 năm 1941, trẻ em trong nhà thậm chí còn dựng một cây thông Noel, trên cành cây cùng với đồ trang trí là những viên kẹo sô cô la thật - đổi lấy một con thỏ do Trezor bắt được ngày hôm trước từ những người lính hậu cần. Họ có món nhắm năm mới, bọn trẻ có ngày lễ. Và họ đã sống sót qua mùa đông phong tỏa đầu tiên, rồi mùa đông thứ hai.
Một ngày tháng 6 năm 1945, Trezor đi săn từ sáng sớm. Một giờ sau, nó bò về sân, để lại đằng sau những vệt máu. Rất có thể, nó đã dẫm phải mìn. Tất cả mọi người khi đó đều khóc thương nó, như khóc một người thân đã khuất. Họ chôn cất nó ngay trong sân.
Và họ đã dựng một tượng đài cho nó. Với một bức ảnh - họ kịp chụp ngay vào mùa xuân chiến thắng, một người hàng xóm xuất ngũ với một chiếc máy ảnh chiến lợi phẩm. Sau chiến tranh, cứ mỗi tối ngày 9 tháng 5, tất cả cư dân trong tòa nhà lại tụ tập bên mộ nó và tưởng nhớ chú chó, như một anh hùng đã ngã xuống.
"Cảm ơn các anh, đã tìm thấy, đã nhắc chúng tôi nhớ. Các cháu của tôi cũng sẽ nhớ đến nó. Ở nhà chúng tôi có nuôi một chú chó con. Các anh biết chúng tôi đặt tên nó là gì không? Trezor! Nó đang lớn lên và vô cùng tinh nghịch!" - người cựu cư dân mỉm cười sau khi kể lại câu chuyện với các công nhân.
Ông cũng yêu cầu đừng phá ngôi mộ của Trezor, mà hãy trồng một cây vân sam tại đó. Để nó đứng sừng sững giữa phố vào mùa đông, như ngày 31 tháng 12 năm 1941. Cư dân của tòa nhà cao tầng mới, khi ăn mừng tân gia, đều rất ngạc nhiên khi thấy một cây vân sam đẹp đẽ, xòe tán ở lối vào tòa nhà hiện đại. Họ thậm chí không hề nghi ngờ rằng cây thông xù xì đó là một tượng đài cho chú chó thời phong tỏa. Người đã cứu 16 cư dân Leningrad khỏi nạn đói.
Trezor- một giống chó cỏ, không thuần chủng, không phục vụ trong quân đội. Nó không đánh hơi mìn, không chở người bị thương, không xông vào xe tăng Đức với thuốc nổ trên lưng. Một chú chó bình thường, như hàng ngàn con khác sống với chủ trong các căn hộ và nhà ở. Nhưng với nguy cơ bị những kẻ hành hạ súc vật bắt hoặc chết vì mảnh bom đạn, Trezor đã kiếm thức ăn cho chủ. Lòng trung thành mang đậm chất loài chó của nó mạnh hơn cơn đói thời phong tỏa và cái lạnh mùa đông, bền chặt hơn mọi lời thề! Và vì thế, người anh hùng trong câu chuyện đã được dựng tượng đài ở Vsevolozhsk, và ở vùng Siberia xa xôi, trẻ em đang làm một bộ phim hoạt hình về Trezor từ những bức tranh.
Lê Đình Hùng dịch