Đảo Hòn Khoai vào đầu mùa hạ, nước biển nơi đây không phô trương màu ngọc lam trong veo như ở những vùng nước sâu ngoài khơi, mà đùng đục màu phù sa, bởi những dòng chảy từ đất liền đổ ra, mang theo dấu tích của rừng ngập mặn, của trầm tích miệt rừng U Minh. Trời Cà Mau những ngày cuối tháng Năm cũng không nắng chói chang. Nắng nhạt nhưng vàng, từng đám mây lơ lửng như tấm khăn mỏng vắt ngang mũi tàu, phản chiếu lên mặt nước những mảng sáng đục, nhòe và bất định như một bức tranh trừu tượng, mỗi người cảm nhận một cách, nhưng đẹp.
Gió nồm Nam đã về, mới chỉ là những đợt đầu mùa, còn nhẹ, nhưng đủ để dựng sóng gợn thành từng lớp va vào mạn tàu. Tàu dập dình, chao đảo, như đang dò hỏi sức chịu đựng, rèn luyện của người lính.
Trên không, phía đầu tàu, vài cánh chim biển sà thấp, lượn ngang cùng những tiếng kêu khan đặc vị muối. Còn dưới khoang, trong cái không gian chỉ rộng chừng hơn sải tay người lớn, nơi bóng điện vàng cũ rọi hắt lên những vách tường sắt. Ở đó có một người đàn ông đang cúi thấp lưng bên chiếc bếp điện. Mồ hôi trên trán anh chảy thành vệt, tay cầm đũa, đang coi mẻ cá kho đang sôi, một món mặn trong thực đơn hàng ngày của bữa cơm giữa biển. Người đàn ông, tôi đang nói tới là Trung tá chuyên nghiệp Trần Văn Hóa, thủy thủ, kiêm đầu bếp của tàu.
 |
Trung tá chuyên nghiệp Trần Văn Hóa, thủy thủ kiêm người "anh nuôi" giữa trùng khơi. Ảnh Thanh Tùng |
Anh Hóa sinh ra ở Vạn Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình một miền đất gió Lào hun trắng cát, nắng nung đến tận nếp nghĩ con người. Ở nơi đó, người ta quen sống trong cái khắc nghiệt, nên lặng lẽ mà bền bỉ như rễ cây phi lao bám cát. Anh Hóa là một người như thế, không ồn ào, không phô trương mà lặng lẽ làm việc như thể việc là hơi thở.
Anh nhập ngũ tháng 2/1993, hơn năm sau anh được điều động về Hải đội 4 (lúc đó đơn vị được thành lập mới) vào tháng 12/ 1994. Từ đó, cuộc đời anh gắn chặt với con tàu như mảnh trăng gắn vào vầng nước, lặng lẽ đi, lặng lẽ sống và lặng lẽ thắp lửa giữa trùng khơi, để cán bộ, chiến sĩ trên tàu luôn có những bữa ăn đảm bảo chất lượng dù bất kể thời tiết như thế nào.
Ai đã từng lên tàu, từng công tác dài ngày trên biển, mới hiểu không có bữa cơm nóng, đầy đủ dưỡng chất bộ đội không thể đủ sức để vượt qua những đợt huấn luyện khắc nghiệt dài ngày với cái nắng nóng trên biển hay những hành trình xuyên đêm giữa sóng to gió lớn.
“Anh nuôi”, một tiếng gọi thật thân thương và người nấu những bữa cơm nóng giữa biển khơi chính là những người như anh Hóa.
Bốn giờ sáng, khi mọi người trên tàu còn đang chìm trong giấc ngủ. Tầu lắc lư theo sóng nước. Anh Hoá đã thức dậy, một mình đi dọc hành lang, chui vào khoang bếp chật hẹp, bật công tắc đèn, bắt tay vào chuẩn bị bữa sáng cho mấy chục con người, bữa cơm đầu ngày giữa mênh mông sóng nước.
Sau khi dọn dẹp, anh Hóa và anh em phụ bếp bắt tay vào chuẩn bị chế biến cho bữa trưa. Công việc bắt đầu từ chín giờ sáng, bếp đỏ lửa cho đến mười một giờ. Sau khi nghỉ ngơi được ít phút, các anh lại bắt tay làm bữa tối, từ mười lăm giờ đến mười tám giờ. Công việc “anh nuôi” diễn ra như thế. Không có ngày nghỉ, không có Chủ nhật.
Ngày anh em bộ đội được nghỉ huấn luyện, anh Hoá vẫn ở trong bếp, mồ hôi ướt lưng áo, mùi hành phi, mùi nước mắm quyện vào từng sợi tóc đã điểm bạc.
Mỗi buổi tối trước khi đi ngủ, anh lại suy nghĩ xem ngày mai nấu món gì, làm sao để bộ đội ăn ngon miệng, đủ chất, ăn hết tiêu chuẩn, không để lãng phí.
Anh Hoá chia sẻ: Trước đây, khi còn dùng bếp than, việc nấu nướng, bếp núc giữa biển có phần vất vả hơn nhiều. Than không bén lửa, khói hun cay mắt, lưng áo ướt đẫm mồ hôi. Rồi đến bếp dầu, mỗi một thay đổi là bớt đi phần cực nhọc, nhưng cái gian nan thì vẫn còn nguyên, bếp nóng, khoang chật, và tàu thì cứ chao nghiêng bất cứ lúc nào.
Trong công việc, môi trường như thế, anh Hóa không hề kêu ca, không phàn nàn, anh quen dần và trở thành một phần của không gian bếp, quen với mùi dầu, mùi mắm muối, lẫn mùi biển và mùi sắt thép của con tàu. Anh thuộc từng nhịp lắc để canh lửa, giữ nồi.
Tuy thế, việc nấu ăn trên biển không hôm nào giống hôm nào. Có hôm, trên biển trời xám xịt, mưa sụt sùi, gió thổi như táp, sóng giật mạnh đến mức xoong nồi, rau cỏ văng ra sàn, anh em được tăng cường giúp bếp vừa phụ vừa say sóng. Như một thói quen công việc, đến giờ Anh vẫn nổi lửa. Một tay cầm muôi, một tay giữ nồi, chân dang rộng ngang vai, bám chắc vào sàn bếp cho khỏi trượt, trán nhễ nhại mồ hôi. Ấy vậy mà bữa cơm vẫn đủ món, vẫn nóng hổi lúc mang lên, không thiếu khẩu phần nào.
Nước ngọt trên tàu hạn chế, phải tiết kiệm từng giọt. Vo gạo xong nước được tận dụng lại để rửa cá, rửa thịt, như một thói quen sinh tồn giữa biển. Anh bảo: “Trên tàu, nước ngọt rất quý, phải sử dụng sao cho tiết kiệm nhưng đồ ăn phải đảm bảo sạch sẽ, hợp vệ sinh”.
Anh thường lặng lẽ quan sát cách bộ đội ăn để tự rút kinh nghiệm, món nào ăn hết, món nào còn thừa, giờ nào bộ đội đói, để từ đó điều chỉnh bữa ăn. Ngày nghỉ, nấu ít đi; ngày huấn luyện vất vả, tăng cường lượng thịt, cá, thêm cơm, tránh không để thiếu, cũng chẳng nên để thừa, cân đối sao cho đủ tiêu chuẩn định mức ăn của anh em.
Trên biển, bữa ăn của bộ đội không phải là định sẵn mà có khi được gom góp từ sự kiên nhẫn và đôi tay cần cù, khéo léo của những người lính đặc công. Tranh thủ những hôm neo tàu, anh em thả câu bên mạn, câu lên những con cá rìa to bằng bàn tay, thịt trắng thơm, đem nấu nồi canh chan cơm ăn ngọt lịm vị cá, thanh thanh vị chua của cà, của me.
Dưới đáy tàu từng lớp vẹm xanh bám đầy, thứ sinh vật biển vừa làm tàu thêm nặng nề, nhưng lại là món quà của biển cả, mấy anh em người nhái lặn xuống đáy cẩn thận bóc tách từng con vẹm ra khỏi thân tàu, sau đó gom lại đem ngâm, rửa sạch nấu lên lại trở thành món cải thiện.
Khi thủy triều xuống mấy anh em lại dầm mình dưới trăng và bùn nước để bắt những con cua, con ghẹ và đôi khi là những con hải sâm còn sót lại khi nước rút.
Những công việc đó, không phải đi để dạo chơi mà đó cũng là một cách “tăng gia”, để thêm vào khẩu phần ăn một chút tươi ngon vị biển và chút tình đồng đội. Sản phẩm tăng gia ấy, từ con cá đến ghẹ, cua… qua bàn tay của anh Hóa, với kinh nghiệm của người vùng biển, cùng chiếc nồi to trở thành bữa ăn, thơm ngon, sạch và đầy ắp sự sẻ chia, thắm tình đồng đội. Món canh cá rìa, canh ghẹ, vẹm xào… không đơn thuần là món ăn cải thiện mà còn góp phần gắn kết anh em đồng đội trên tàu thành một gia đình lớn giữa biển trời mênh mông.
Ngoài công việc “anh nuôi”, anh Hóa còn là một thủy thủ. Khi tàu nhổ neo, anh ra boong quan sát địa hình, thời tiết…; khi tàu cập bến, anh giúp chằng buộc, thả neo, bảo đảm an toàn… Có lần, tàu cập cảng giữa lúc mưa to gió lớn. Anh chạy vội ra boong, áo quần ướt sũng, gió tạt rát mặt, tay vẫn miết chặt dây chằng. Một chiến sĩ trẻ đứng trên khoang làm cùng và thổ lộ: “Tàu không có bố Hóa thì vẫn neo được… nhưng có bố ra boong là anh em thấy yên tâm hẳn, làm gì cũng chắc tay hơn”. Thế nhưng khi được hỏi về công việc, Anh lại xua tay: “Ôi dào, công việc của tôi có gì đáng kể đâu, anh em huấn luyện mới vất vả. Tôi chỉ mong nấu cơm sao cho ngon để bộ đội ăn hết, có sức khỏe hoàn thành tốt nhiệm vụ là tôi mừng rồi”, anh cười hiền, cái cười rất Quảng Bình, mộc và sâu.
Người đầu bếp trên tàu không phải chỉ là người nấu ăn đơn thuần. Các anh là những người giữ lửa cho con tàu, giữ sự ấm áp cho những hải trình dài giữa trùng khơi.
Giữa tiếng sóng gầm, tiếng gió rít, giữa biển trời mênh mông, có một gian bếp sáng đèn mỗi sớm mai, mỗi chiều muộn, nơi đó có anh, có tấm lòng người lính đặc công lặng lẽ, cần mẫn, như nhịp tim của con tàu không bao giờ ngơi nghỉ.
Chuyến đi hướng Tây Nam lần này, tàu lại lắc lư nhè nhẹ trên đầu sóng. Anh Hóa vẫn thức dậy từ bốn giờ sáng, lặng lẽ chuẩn bị bữa ăn đầu ngày mới. Trong khoang bếp, mùi cơm mới, mùi hành phi, thịt rang thơm lừng. Ngoài kia, sau bữa sáng bộ đội đang chỉnh tề đội hình, chuẩn bị nhiệm vụ huấn luyện mới. Họ chưa nhìn thấy anh nhưng trong họ đã có hơi ấm từ bữa ăn của người thủy thủ, người đầu bếp mang tên Trần Văn Hóa, người nấu bếp giữa trùng khơi.
Thượng tá, TS. Tô Thanh Tùng, Phó Chủ nhiệm khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Sĩ quan Đặc công.