“Tiếng kêu” rằng nhiều ngành xã hội “hay, ý nghĩa” nhưng phải ngưng tuyển sinh vì thị trường lao động không dùng, nghe có vẻ “ai oán” từ các đại học. Tuy nhiên, nếu nhìn từ phía “vì sao không dùng” có khi lại giúp sáng tỏ vấn đề hơn: đời nào người ta lại có thể khước từ cái thật sự ý nghĩa, thật sự hay ho cần thiết cho phát triển?
Thị trường: Phép thử khắc nghiệt cho chất lượng
Vừa qua, tại diễn đàn khoa học “Đào tạo và nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn trong bối cảnh mới” do Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) tổ chức, các chuyên gia, lãnh đạo trường đã chỉ ra những khó khăn trong đào tạo, nghiên cứu của các ngành xã hội hiện nay.
Theo VietNamNet, đại diện nhiều trường đại học cho rằng mặc dù có những ngành rất hay và ý nghĩa, nhưng thị trường lao động không sử dụng, sinh viên ra trường không có việc, bắt buộc trường phải tạm dừng đào tạo.
“Thị trường lao động không dùng” tiếp tục gióng lên hồi chuông về định hướng đào tạo đại học ở Việt Nam. Nhưng nếu chỉ nhìn hiện tượng rồi quy trách nhiệm cho thị trường, e rằng đã bỏ qua căn nguyên quan trọng nhất - chất lượng đào tạo.
Lập luận “thị trường lao động không sử dụng nên sinh viên khó tìm việc” chỉ phản ánh phần nổi của tảng băng. Vấn đề sâu hơn, và vì thế nan giải hơn, nằm ở việc chương trình đào tạo không bắt kịp thực tiễn. Thị trường “quay lưng” vì nó chỉ làm đúng vai trò của mình, là một phép thử khắt khe cho các ngành học mà chất lượng đào tạo chưa đủ sức thuyết phục.
Tại diễn đàn trên, chúng ta được nghe có những ngành như Gia đình học, Văn hóa dân tộc thiểu số, Di sản hay Văn hóa học… rất thú vị và đúng nhu cầu văn hoá - xã hội trong bối cảnh đất nước hội nhập sâu rộng. Nhưng tất cả đang khủng hoảng về tuyển sinh lẫn cơ hội việc làm.
Câu hỏi đặt ra, trong bao nhiêu năm qua, chương trình đào tạo các ngành này đã được cập nhật ra sao? Giảng viên có bao nhiêu trải nghiệm thực tiễn, bao nhiêu kết nối với địa phương, cơ quan quản lý, doanh nghiệp văn hoá? Sinh viên được tham gia bao nhiêu dự án thật? Bao nhiêu nghiên cứu ứng dụng thực sự chạm đến cộng đồng?
Nếu chương trình vẫn nặng lý thuyết, giảng viên thiếu năng lực kết nối, sinh viên học xong không biết mình làm nghề gì, thì việc bị “thị trường đào thải” là tất yếu. Không một thị trường lao động nào có thể hấp thụ những nhân sự với năng lực được đào tạo theo mô hình cũ kỹ.
Nói cách khác, không phải thị trường không cần khoa học xã hội, mà là đào tạo khoa học xã hội đang không đáp ứng nổi thị trường.
Bóp méo “tinh thần đại học”
Một thực tế khác cần được mổ xẻ, trong nhiều năm, các trường đại học thi nhau mở ngành. Chỉ cần vài giảng viên cơ hữu, vài cái tên chương trình được sao chép qua lại, thế là một ngành mới ra đời. Năm 2024, Thanh tra Bộ Giáo dục và Đào tạo kết luận nhiều trường mở ngành khi chưa đủ điều kiện, từ giảng viên, cơ sở vật chất cho đến việc đảm bảo chất lượng.
Những ngành khoa học xã hội - vốn đòi hỏi chiều sâu học thuật, năng lực nghiên cứu, môi trường thực chiến với cộng đồng - lại càng khó có thể vận hành tử tế trong điều kiện “dạy đại, học đại”. Không ít trường mở ngành nhưng không có phòng nghiên cứu, không có dự án thực địa, không có cơ chế gắn kết với xã hội. Khi đầu vào thấp, đầu ra mờ mịt, sinh viên thờ ơ, thị trường nghi ngại, việc ngành bị “dẹp tiệm” chỉ còn là vấn đề thời gian.
Thị trường hay ngành học đều không có lỗi cho những bất cập này. Lỗi ở cái tư duy mở ngành thiếu trách nhiệm, coi đào tạo đại học như một hoạt động kinh doanh ngắn hạn.
Một biểu hiện đáng lo khác, khi “bàn tán” hay “định hướng” từ khoa học cơ sở tiến đến khoa học ứng dụng sao cho sát thực tiễn, hay thậm chí “cú chuyển hướng” sang đào tạo liên ngành, đã có sự nhập nhèm giữa khái niệm ứng dụng, liên ngành và dạy kỹ năng.
 |
| Thị trường hay ngành học đều không có lỗi cho những bất cập này. Ảnh: hcmussh.edu.vn |
Không ít chương trình khoa học xã hội hiện nay, khi chuyển sang hướng ứng dụng, lại biến tướng thành dạy kỹ năng mềm như giao tiếp, thuyết trình, tổ chức sự kiện…
Hoặc khi các trường chuyển từ đào tạo nghiên cứu thuần túy sang nghiên cứu liên ngành, chẳng hạn văn hóa kết hợp truyền thông, đối ngoại, công nghiệp… để ra “ngành mới” nhằm vừa thu hút sinh viên, vừa đáp ứng nhu cầu thực tiễn thì cũng mang hơi hướm “đào tạo nghề” bậc đại học.
Các biểu hiện trên không mang tinh thần đại học. Đại học trước hết phải là nơi kiến tạo tri thức, nuôi dưỡng tư duy, rèn luyện khả năng phân tích - phản biện, mở rộng tầm nhìn.
Trong cuốn “Tạo dựng tương lai”, Frank H.T.Rhodes cho rằng: “Đại học là chiếc cầu nối quá khứ với tương lai, là nơi hình thành năng lực hiểu biết và trí tưởng tượng là nền tảng của mọi thay đổi”.
Khi chương trình đào tạo thu hẹp khoa học xã hội thành vài kỹ năng vụn vặt, chúng ta đã phản bội tinh thần đó. Và khi sinh viên ra trường thiếu tư duy khoa học nhưng lại thừa vài kỹ năng phổ thông-điều mà ngoài xã hội ai cũng có thể học nhanh trong một khóa 3 ngày, thất nghiệp chỉ là hệ quả dễ hiểu.
Tri thức về lịch sử, tôn giáo, dân tộc, tâm lý, xã hội học… là những nền tảng giúp ổn định xã hội, ngăn ngừa xung đột, định hướng chính sách - những giá trị không thể đo bằng tiền, nhưng mất đi sẽ phải trả giá rất đắt. Và thị trường, đời sống cần nguồn nhân lực đủ chuyên môn về các ngành khoa học xã hội nền tảng đó với sự thông tuệ, cân bằng và chiều sâu, cho đòi hỏi phát triển không ngừng nghỉ.
Học lại bài học niềm tin
Một điểm chung mà nhiều chuyên gia đã nhấn mạnh là tái cấu trúc theo hướng liên ngành, tích hợp chuyên môn, tạo ngành mới phù hợp hơn với thực tiễn. Điều đó đúng, nhưng chưa đủ. Việc tái cấu trúc phải dựa trên các nguyên tắc cốt lõi.
Ứng dụng không có nghĩa là rời bỏ học thuật. Giáo dục đại học phải tạo ra công dân biết suy nghĩ độc lập, có khả năng phân tích vấn đề phức tạp, hiểu về con người và xã hội là nền tảng để làm bất kỳ công việc nào.
Liên ngành nhưng không “liên miếng”, không phải là việc ghép vài môn rời rạc vào một cái tên mới. Liên ngành phải được dẫn dắt bởi đội ngũ có năng lực nghiên cứu, có tầm nhìn, có khả năng thiết kế chương trình đúng nghĩa. Nếu không, việc đổi tên ngành chỉ là “bình mới rượu cũ”.
Đào tạo đại học không chỉ có “kinh viện” mà quên kết nối với thị trường thật, dự án thật ở địa phương, hợp tác thật với doanh nghiệp, thực tập thật - nơi sinh viên được giao việc chứ không phải đến điểm danh và nghiên cứu thật với dữ liệu có phản hồi, có giá trị ứng dụng.
Nhiều ngành khoa học xã hội đóng cửa không phải vì xã hội không cần chúng. Ngược lại, xã hội càng phát triển càng cần những cái nhìn nhân văn, những nghiên cứu về con người, cộng đồng, văn hoá, bản sắc, phát triển bền vững.
Điều chúng ta thiếu không phải nhu cầu xã hội hay thị trường, mà là niềm tin. Niềm tin ấy chỉ có thể được khôi phục khi đào tạo thực sự đúng tinh thần đại học, đúng với sứ mệnh khai phóng mà Frank Rhodes nhắc tới: xây dựng một xã hội biết hiểu chính mình, biết học hỏi từ quá khứ, biết tạo dựng tương lai.
Để làm được điều đó, phải dám nhìn thẳng vào sự thật. Không phải thị trường đang khước từ các ngành khoa học xã hội, mà chính mô hình đào tạo cũ kỹ kém chất lượng đang khiến các bên mất lòng tin vào giá trị mà nhà trường cung cấp.