Tặng Anastasia Prokopyevna Kopylova.
*********
Thật kỳ lạ là tại sao cảm giác của chúng ta mỗi khi có lỗi trước các thầy cô giáo cũng giống cảm giác có lỗi trước cha mẹ mình? Và, nói chung, không chỉ vì những gì xảy ra khi còn ngồi trên ghế nhà trường, mà còn vì những điều còn lại khi chúng ta không đi học nữa.
Năm 1948, tôi đi học lớp 5. Phải nói chính xác là đi học bằng xe tải: ở làng tôi chỉ có trường tiểu học, vì vậy tôi phải đi năm chục cây số lên tỉnh lỵ để học tiếp. Trước đó một tuần, mẹ tôi đã lên nhà người quen ở đó xin cho tôi tá túc. Sau đó, vào một ngày cuối tháng Tám, bác Vanya, tài xế lái chiếc xe tải duy nhất ở nông trường, thả tôi xuống phố Podkamennaya, nơi tôi sẽ phải sống những ngày tiếp theo. Bác giúp tôi mang tay nải với chiếc giường vào nhà, sau đó vỗ vai tôi khích lệ và lên xe rời đi. Tôi đã bắt đầu cuộc sống tự lập như thế, khi mới 11 tuổi.
Nạn đói năm đó vẫn chưa thuyên giảm, trong khi mẹ tôi có 3 đứa con, tôi là lớn nhất. Mùa xuân, khi tình cảnh trở nên đặc biệt túng quẫn, tôi ăn và ép đứa em gái nhỏ cùng ăn mầm khoai tây, hạt yến mạch và hạt lúa mỳ đen để có cái mà nhét vào bụng - để không phải lúc nào cũng nghĩ đến cái ăn. Suốt mùa hè, mấy anh em ra sức tưới những hạt giống gieo bằng nước sông Angara trong sạch, nhưng không hiểu sao chả thu hoạch được gì hoặc là quá ít ỏi đến mức chúng tôi chẳng thấy gì. Vả lại, tôi nghĩ, cách làm đó không hoàn toàn vô ích và lúc nào đó vẫn phù hợp, nhưng vì không có kinh nghiệm nên chúng tô đã trồng và chăm sóc không đúng cách.
Thật khó nói hết việc mẹ tôi phải đắn đo thế nào khi cho tôi lên tỉnh học. Gia đình tôi không có cha, sống rất khổ sở, và mẹ tôi chắc chắn cho rằng, không thể khổ hơn nữa - thế là khổ nhất rồi! Tôi học giỏi, rất thích đi học và được coi là người có học nhất ở làng: tôi viết thư và đọc thư hộ các cụ già, tôi đã đọc hết sách có trong cái thư viện xập xệ ở làng, buổi tối tôi hay kể lại đủ thứ chuyện đã đọc mà phần lớn tự mình thêm thắt vào cho bọn trẻ trong làng nghe.
Mọi người đặc biệt tin tưởng tôi khi nói đến chuyện trái phiếu chính phủ. Sau chiến tranh, người ta tích cóp được rất nhiều, mỗi khi bảng thanh toán lãi được gửi về làng thì họ mang trái phiếu đến cho tôi. Họ cho rằng, tôi có con mắt may mắn. Tiền lời từ việc bán trái phiếu thường rất ít ỏi, nhưng người làm trong nông trường những năm đó đều vui mừng dù chỉ lãi vài kopech (kopech = 1/100 rúp), nhờ có tay tôi đụng vào mà có những khoản thu hoàn toàn tình cờ. Vô tình tôi cũng được vui lây. Tôi được ưu ái hơn những đứa trẻ trong làng, thậm chí còn được người ta cho ăn, có lần, bác Ilya, một ông già keo kiệt và bủn xỉn, thắng được 400 rúp, còn nổi hứng cào cho tôi một xô đầy khoai tây - giá trị không ít tiền ở thời điểm mùa xuân lúc đó.
Chính vì tôi thông hiểu các số trái phiếu nên mọi người nói với mẹ tôi: "Thằng con nhà chị lớn lên thông minh như thế mà không cho đi học nữa thì phí". Và mẹ tôi đã bất chấp mọi khó khăn thu xếp cho tôi đi học, mặc dù lúc đó ở làng tôi chưa có ai lên tận tỉnh để học. Tôi là người đầu tiên. Tôi không hiểu sẽ phải làm gì, điều gì đang ở phía trước, những thử thách nào đang chờ đợi một con bồ câu nhỏ như tôi ở một nơi xa lạ.
Ở quê nhà, tôi là đứa học giỏi. Vậy còn phải học nữa làm gì? - tại sao tôi đến nơi đây, ở chỗ này tôi chẳng có việc gì khác để làm, còn làm những việc được giao theo kiểu được chăng hay chớ thì tôi không biết làm. Tôi gần như không dám đến trường nếu còn dù chỉ một bài chưa thuộc, bởi vậy, tất cả các môn học, trừ môn tiếng Pháp, tôi được toàn điểm 5.
Tiếng Pháp tôi học không tốt vì cách phát âm của mình. Tôi ghi nhớ từ ngữ và thành ngữ dễ như bỡn, dịch bài nhanh như chớp, viết những bài chính tả khó một cách xuất sắc, nhưng cách phát âm từ đầu đến cuối vẫn đặc là người vùng sông Agara (ở Siberia), nơi mà từ lúc ra đời không ai nói những từ ngữ nước ngoài, thậm chí còn nghi ngờ về sự tồn tại của ngôn ngữ khác. Tôi nói tiếng Pháp theo kiểu những người nói líu lưỡi ở quê tôi - vừa nuốt một nửa số âm tiết vì cho là không cần thiết vừa tuôn ra nửa số âm tiết còn lại như những tiếng chó sủa nhát gừng.
Cô giáo dạy tiếng Pháp Lydia Mikhailovna vừa nghe tôi nói vừa chau mày và nhắm mắt. Dĩ nhiên, cô chưa bao giờ nghe thấy ai nói tiếng Pháp giống như vậy. Cô liên tục chỉ cho tôi cách phát âm những âm mũi, các cụm nguyên âm, và yêu cầu tôi nhắc lại theo cô - tôi bối rối, lưỡi trong miệng tôi cứng như khúc gỗ và không cử động. Nhưng đáng sợ nhất bắt đầu khi tôi ở trường về đến nhà. Ở nhà đó, tôi thường không được yên ổn ngồi học bài, lúc nào cũng phải làm một việc gì đó, hết lũ trẻ lân la đến - muốn hay không muốn cũng phải chơi đùa với chúng, đến lúc ngồi học thì phải làm việc này việc khác.
Nhưng mãi đến lúc chỉ còn lại một mình thì nỗi buồn lại ập đến - tôi nhớ nhà, nhớ làng quê. Trước đây chưa bao giờ tôi phải xa gia đình dù chỉ một ngày và, dĩ nhiên là, tôi chưa được chuẩn bị tinh thần để sống giữa những người xa lạ. Tôi rất buồn, cay đắng và chán ghét! - còn tệ hơn cả ốm đau. Tôi chỉ muốn, chỉ mơ ước một điều - về nhà và về nhà. Tôi gầy đi trông thấy, cuối tháng 9 mẹ tôi lên thăm và phát sợ lên khi trông thấy tôi. Khi có mẹ, tôi nén lòng, không kêu ca và không khóc nhưng khi mẹ bắt đầu đi thì tôi không kiềm chế được và vừa gào hét vừa chạy theo xe. Mẹ đứng trên thùng xe vẫy tay để tôi dừng lại, nhưng tôi chả hiểu gì. Mẹ đành bảo xe dừng lại.
- Con về thu dọn đi, - mẹ nói khi tôi chạy đến. - Đủ rồi, không cần học nữa, đi về nhà.
Tôi sực nhớ ra và chạy ngược về.
Nhưng tôi không hẳn gầy ốm đi vì nhớ nhà mà còn do thường xuyên bị đói. Mùa thu, khi bác Vanya chở bánh mỳ lên Zagotzerno cách tỉnh lỵ không xa, mẹ gửi đồ ăn lên cho tôi khá thường xuyên, khoảng mỗi tuần một lần. Nhưng khổ nỗi là không đủ cho tôi ăn. Bởi vì có gì đâu ngoài bánh mỳ và khoai tây, thi thoảng mẹ gửi kèm theo một lọ phomai tươi chắc của ai cho hoặc mẹ đổi bằng thứ gì đó chứ nhà tôi làm gì có bò. Đồ ăn mang đến trông thì có vẻ nhiều nhưng chỉ sau hai ngày là hết. Tôi nhanh chóng nhận ra rằng, nửa cái bánh mỳ thân thương của mình biến đi đâu một cách thần bí nhất. Lúc tôi xem thì vẫn còn nhưng lúc xem lại thì đã không thấy nữa. Điều tương tự cũng xảy ra với bao khoai tây. Ai đã rút ruột dần dần - hay là dì Nadya, người luôn mồm rầy la, làm việc luôn tay, một mình quay cuồng với 3 đứa con, hay là một trong hai đứa con gái lớn hoặc là thằng út Fedya - tôi không biết, tôi thậm chí cảm thấy sợ khi nghĩ đến những gì mình thấy. Chỉ bực mình một điều là mẹ phải bớt phần của hai em cho tôi mà ở đây chúng lại bị bớt xén mất. Tôi chấp nhận chung sống với chuyện đó còn hơn để mẹ biết.
Cái đói ở đây khác hẳn cái đói ở quê. Ở quê tôi, nhất là vào mùa thu, luôn có đầy những thứ để bắt, để hái, để đào và để nhặt, ở sông Angara có đầy cá, trong rừng không thiếu chim chóc. Còn ở đây, đối với tôi mọi thứ xung quanh đều chẳng có gì, từ con người xa lạ, vườn rau đến cả mặt đất cũng xa lạ. Cách chỗ tôi ở chục dãy nhà có một con suối nhỏ bị người ta vứt đủ thứ hằm bà lằn xuống. Có lần tôi ngồi câu cả ngày chủ nhật được mỗi ba con cá bống tí tẹo bằng cái thìa uống trà - không giải quyết được vấn đề gì. Từ đó, tôi không đi câu cá nữa.
Các buổi chiều tôi thường la cà quanh quán trà ở ngoài chợ, ghi nhớ giá các mặt hàng, rồi về nhà mà chẳng mua gì. Ở cạnh cổng nhà dì Nadya đặt một ấm nước sôi, tôi rót một cốc nước nóng uống cho ấm bụng rồi đi ngủ. Buổi sáng tôi đi học. Cuộc sống cứ trôi qua như vậy đến giờ vàng, tức là khi chiếc xe tải của đỗ cạnh cổng và bác Vanya gõ cửa. Tôi đói và biết rằng, đồ ăn mà mẹ gửi lên cho tôi sẽ chẳng kéo dài được bao lâu, cho dù tôi ăn hà tiện. Bởi vậy, tôi ăn như thằng chết đói, rồi một hai ngày sau lại treo mồm lên.
Có lần, khoảng tháng chín, thằng Fedka (tên gọi khác của Fedya) hỏi tôi:
- Mày dám chơi "đáo" không?
- Chơi "đáo" là gì? - tôi không hiểu.
- Là kiểu chơi. Chơi bạc. Nếu mày có tiền thì đi chơi.
- Tao không có.
- Tao cũng không có. Thì ta đi xem thôi vậy. Mày sẽ thấy, hay lắm.
Fedka dẫn tôi đi lối sau vườn rau. Hai đứa đi men theo các rãnh đất, gò đất mọc dày đặc cây tầm ma đã khô đen, quấn vào nhau chằng chịt, trên cành lủng lẳng những chùm quả độc chết người, băng qua và nhảy qua các mô đất, qua một bãi rác cũ và nhìn thấy một lũ trẻ con tụ tập trên một bãi đất trũng bằng phẳng và sạch sẽ.
Chúng tôi lại gần, lũ trẻ tỏ ra cảnh giác. Tất cả bọn chúng trạc tuổi tôi, trừ một đứa cao to lực lưỡng có mái tóc hung dài lòa xòa tỏ ra có vừa có sức khỏe vừa có uy. Tôi nhớ, nó học lớp bảy.
- Mày còn dẫn thằng này đến làm gì? - nó cục cằn hỏi Fedka.
- Vadik, nó là người nhà, người nhà mà, - Fedka giải thích. - Nó ở nhà tao.
- Mày chơi chứ? - Vadik hỏi tôi.
- Tao không có tiền.
- Nhìn nhưng cấm bép xép với ai là chúng tao ở đây.
- Lại còn thế nữa! - tôi bực mình.
Từ lúc đó, bọn chúng không thèm để ý đến tôi nữa, tôi tránh qua một bên và chăm chú quan sát. Không phải tất cả đều cùng chơi - lúc thì sáu, lúc thì bảy đứa, những thằng còn lại tò mò đứng nhìn và tỏ ra rất e ngại Vadik. Tôi hiểu ngay, nó là thằng làm đầu trùm ở đây.
Luật chơi trò này không có gì khó hiểu. Mỗi thằng đặt cửa một đồng xu 10 kopech xếp thành một chồng, mặt sấp là mặt có chữ số quay lên trên và được bỏ vào một ô nhỏ gọi là ô tiền, cách đó chừng 2 mét kẻ một vạch đậm. Phía vạch bên kia có một hòn đá nhô lên để dẫm một chân trụ lên khi đứng ném hòn đáo bằng đá hình tròn. Cần phải tính toán khi ném hòn đáo sao cho nó lăn càng gần vạch càng tốt nhưng không được lăn qua vạch - ai tung đáo gần vạch nhất sẽ là người đầu tiên chọi xu. Cũng dùng hòn đáo đó chọi vào các đồng xu để chúng lật mặt ngửa có hình con chim đại bàng lên. Ngửa đồng xu nào lên thì được lấy đồng xu đó, còn không làm cho nó lật ngược lại thì đưa cho người sau đánh. Quan trọng nhất là khi chọi mà hòn đáo nằm đè lên chồng tiền xu và chỉ cần một đồng xu ngửa lên thì toàn bộ tiền sẽ vào túi bạn, và mọi người lại đặt tiền chơi ván khác.
Thằng Vadik rất khôn ranh. Nó bao giờ cũng bước đến chỗ hòn đá để tung đáo sau cùng khi đã thấy toàn bộ thứ tự chọi xu của mọi người và nó biết cần phải tung hòn đáo thế nào để giành vị trí là người đầu tiên chọi xu. Những người chọi đầu tiên mới có tiền, hiếm khi tiền sót lại cho những người cuối cùng.
Chắc chắn, mọi người đều hiểu rằng Vadik giở trò khôn vặt nhưng không ai dám nói thẳng với nó. Quả thực, nó chơi cũng giỏi. Nó bước đến chỗ hòn đá, hơi khuỵu chân, nheo mắt, nhắm hòn đáo vào điểm rơi mà nó chọn, thong thả vươn tay như múa - hòn đáo rời khỏi tay và bay đúng đến vị trí nó đã nhắm.
Nó lắc đầu để hất mái tóc xòa lên trên, sau đó khinh khỉnh nhổ nước bọt sang bên cạnh, tỏ ý đã tung đáo xong, rồi làm ra vẻ lười biếng, cố tình bước chậm rãi đến chỗ đặt tiền xu. Nếu các đồng xu dồn đống, nó sẽ chọi mạnh nghe rõ tiếng va chạm, nếu xu nằm rải rác, nó chọi nhẹ đủ để đồng xu không bật mạnh lên, không xoay trên không mà chỉ bật lên vừa đủ để lật ngửa mặt dưới lên. Không đứa nào làm được như nó. Bọn trẻ chỉ đánh bừa và móc tiền mới ra để chầu. Đứa nào hết tiền thì đứng sang một bên mà xem.
Tôi cảm thấy chân tay ngứa ngáy, nếu có tiền, chắc chắn tôi sẽ tham gia. Ở quê, bọn trẻ con chúng tôi thường giúp các bà già xâu kim nhưng đó chỉ cần tinh mắt thôi. Còn tôi thường nghĩ ra những trò đòi hỏi sự khéo léo: tôi nhặt một nắm sỏi, chọn những mục tiêu ngày càng khó và nhắm ném đến kỳ trúng mới thôi - mà phải mười lần trúng cả mười. Tôi ném, tôi tung, tôi xoay người lại ném qua vai, tôi tung lên cao để nó rơi thẳng xuống đích. Tôi đã có chút tài mọn như vậy đấy. Nhưng bây giờ tôi không có tiền.
Mẹ toàn gửi bánh mỳ lên cho tôi vì nhà tôi không có tiền, nếu không tôi đã mua bánh mỳ ở đây. Ở nông trường thì lấy đâu ra tiền? Dẫu sao mỗi tháng mẹ cũng hai lần đặt vào phong bì thư một đồng 50 kopech gửi cho tôi để mua sữa uống. Bác sỹ bảo tôi phải uống sữa để chữa bệnh thiếu máu. Tôi thường xuyên bị chóng mặt bất thình lình.
Nhưng khi lần thứ ba nhận được 50 kopech, tôi không đi mua sữa mà đổi thành tiền lẻ và đi ra đằng sau bãi rác. Chỗ này đã được bọn trẻ con đã khôn ngoan lựa chọn, không có gì để chê: địa thế bằng phẳng, xung quanh bao bọc kín bởi các gò đất, không bị ai nhìn ngó. Nếu chơi ở trong làng để người lớn trông thấy, sẽ bị đuổi không cho chơi, dọa báo thầy hiệu trưởng hoặc công an. Ở đây không ai ngăn cản chúng tôi, mà lại không xa, chỉ chạy 10 phút là đến.
Lần thứ nhất tôi thua 90 kopech, lần thứ hai 60 kopech. Tất nhiên là tôi tiếc tiền đến buốt ruột nhưng tôi cảm thấy mình đang dần bắt nhịp với trò chơi, tay tôi dần quen với hòn đáo, tôi đã học được cách tung với một lực vừa đủ để nó đi theo ý muốn, mắt cũng học được cách đoán trước nó sẽ rơi xuống chỗ nào và lăn trên mặt đất bao xa nữa. Chiều chiều, sau khi lũ trẻ giải tán, tôi lại quay lại đây, lấy hòn đáo mà thằng Vadik dấu dưới hòn đá lên, lấy tiền xu lẻ từ túi quần ra và tập chọi cho đến tối mịt. Tôi đã luyện được đến mức cứ 10 lần tung thì 3-4 lần rơi đúng chỗ các đồng xu.
Và rốt cục cũng đến ngày tôi thắng.
Tiết trời mùa thu ấm áp và khô hanh. Đang tháng mười mà nắng ấm đến mức có thể mặc áo sơ mi, thi thoảng mới có một cơn mưa bất chợt, họa hoằn mới có một cơn gió đi hoang mang theo hơi mát từ đâu đến. Bầu trời trong xanh như mùa hè, hình như mặt trời lặn sớm hơn. Vào những lúc đẹp trời, không khí như cuộn lên trên những gò đất, lan tỏa khắp nơi mùi hương cay nồng ngất ngây của những cây ngải cứu khô, nghe rõ những tiếng nói từ xa xôi vọng về, tiếng những đàn chim bay tránh rét ngang lưng trời. Cây cỏ ở bãi đất của chúng tôi đã có màu úa và rũ xuống nhưng vẫn còn khá tươi và mềm mại. Những đứa nào không chơi đáo, hay nói chính xác là thua hết tiền, thì chơi đùa trên bãi cỏ đó.
Bây giờ, hàng ngày cứ tan trường là tôi vội vàng chạy đến đây. Những đứa trẻ đến chơi thường xuyên thay đổi, luôn có đứa mới đến, chỉ có Vadik "tuần chay nào cũng có nước mắt". Vắng nó không thể bắt đầu cuộc chơi. Theo sát Vadik như hình với bóng là một thằng to đầu, tóc húi cua, vóc người lực lưỡng tên lóng là Ptakha. Trước đây tôi chưa bao giờ gặp nó ở trong trường, nhưng nói trước một chút là, vào học kỳ ba nó bất ngờ nhảy vào lớp tôi học. Té ra là nó học đúp lớp 5, chả hiểu vì lý do gì mà nó tìm cách nghỉ học đến tận tháng giêng. Ptakha cũng hay chơi nhưng không thường xuyên như thằng Vadik, kém hơn một chút, nhưng không bao giờ bị thua. Nó không thua chắc chắn vì cùng phe với Vadik và thằng này lén giúp nó.
Ở lớp tôi thằng Tishkin thi thoảng cũng chạy ra bãi đất trống. Đó là một thằng lúc nào cũng tất bật, mắt hấp háy, thích giơ tay phát biểu trong giờ học. Biết hay không biết, nó cũng giơ tay. Bị gọi lên thì im thin thít như thịt nấu đông.
- Mày giơ tay để làm gì? - bọn bạn hỏi Tishkin.
- Tao nhớ, nhưng khi đứng lên lại quên sạch, - con mắt ti hí của nó giần giật.
Tôi không chơi với thằng này. Do bản tính nhút nhát, ít mồm ít miệng, thói quen quá khép kín tự ti của người nhà quê - cả nỗi nhớ nhà nữa, làm cho tôi không còn thiết tha gì nên tôi không chơi với các bạn cùng lớp. Chúng cũng không chơi với tôi, tôi luôn cô đơn, tôi không hiểu và không phân biệt được nỗi cô đơn với hoàn cảnh đắng cay của mình: tôi cô độc, vì đây không phải là nhà mình, không phải là quê mình, nơi tôi có rất nhiều bạn bè.
Tishkin có vẻ như không nhìn thấy tôi ở bãi đất. Sau khi thua hết tiền rất nhanh, nó bỏ về ngay và rất lâu sau mới quay lại.
Tôi thắng và thường xuyên thắng, ngày nào cũng được tiền. Tôi tính toán: không cần phải lăn hòn đáo trên đất để giành quyền chọi đầu tiên; khi có nhiều người chơi, điều đó không đơn giản: càng tìm cách tung đáo gần vạch càng có nguy cơ quá vạch và trở thành người chơi cuối cùng.
Phải tung hòn đáo để đè lên chồng tiền xu. Tôi làm như vậy. Dĩ nhiên là tôi chơi bài liều nhưng với tài nghệ của mình sự liều lĩnh mang lại kết quả như mong đợi. Tôi có thể thua 3-4 lần như đến lần thứ 5 thì tôi thu hết tiền chầu bằng gấp ba số tiền thua. Cứ lại thua và lại thu về. Tôi ít khi phải chọi đáo vào từng đồng xu, nhưng tôi có cách riêng: nếu Vadik chọi để đồng xu lật vào phía mình thì tôi làm ngược lại: chọi để xu bật ra - hoàn toàn khác thường, nhưng làm thế thì hòn đáo ghìm đồng xu lại, không cho nó bật tung lên, khi nảy khỏi hòn đáo thì đồng xu lật ngược lại.
Bây giờ tôi bắt đầu có tiền. Tôi không cho phép mình chơi quá sa đà và lảng vảng ở bãi đất đến chiều tối, tôi chỉ cần thắng được một rúp, mỗi ngày chỉ cần thắng một rúp là đủ. Khi thắng được đúng từng đó tiền, tôi chạy về, ra chợ mua một lọ sữa (các cô bán sữa càu nhàu, nhìn những đồng tiền cong queo, sứt mẻ và sướt sát nhưng vẫn đong sữa), sau đó tôi về ăn trưa và ngồi học. Dẫu sao tôi không bao giờ ăn no nhưng tôi thấy rằng, việc uống sữa giúp tôi có thêm sức khỏe và xoa dịu cơn đói. Tôi cũng cảm thấy rằng, bây giờ tôi rất ít khi bị chóng mặt.
Thoạt đầu, Vadik thản nhiên nhìn số tiền tôi ăn được. Chính nó cũng được tiền, tiền từ túi nó đâu có chảy vào túi tôi. Đôi lúc nó còn khen tôi: đấy, thấy chưa, cần phải tung thế, học đi, mấy thằng hậu đậu. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau nó nhận thấy tôi nhanh chóng bỏ cuộc và có lần nó chặn tôi lại:
- Mày làm gì - hốt được tiền rồi chuồn à? Sao mà khôn lỏi thế! Chơi tiếp.
- Vadik, tao phải học bài, làm bài, - tôi kiếm cớ để thoái thác.
- Thằng nào phải học bài thì lần sau đừng đến đây nữa.
Ptakha hùa theo:
- Ai bảo mày, ăn tiền lại chơi như thế. Nếu muốn về học thì đánh ít thôi. Hiểu chưa?
Sau lần đó, Vadik không cho tôi tung đáo trước nó nữa và bắt tôi tung cuối cùng. Nó đánh tốt và tôi không ít lần phải móc tiền mới ra, trong khi chưa được chạm tay vào hòn đáo. Nhưng tôi tung tốt hơn nếu được quyền tung đáo, hòn đáo như có nam châm cứ bay đúng chỗ có tiền. Chính tôi cũng ngạc nhiên về tài thiện xạ của mình, đáng ra tôi phải nghĩ ra việc không bộc lộ nó quá mức, chơi để người khác không nhận ra, nhưng đằng này tôi tiếp tục vơ vét tiền một cách trắng trợn, không để lại chút nào cho đứa chơi sau. Làm sao mà tôi biết được rằng, chúng sẽ không bao giờ cho phép ai chơi giỏi hơn chúng trong lĩnh vực của mình? Lúc đó đừng mong chờ sự thuơng hại, đừng đợi ai che chở, đối với những đứa khác, nó là kẻ chơi trội và căm thù nó nhất lại là những đứa theo đuôi nó. Mùa thu năm đó, tôi đã phải trả giá cho bài học xương máu ấy.
(Còn tiếp)
Người dịch: Dương Nguyên Khải.
Valentin Rasputin (1937-2015).