Thứ Ba, 04/02/2025 09:15 (GMT+7)

Gần hai thập kỷ nghiên cứu bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne của nữ giáo sư

Từ thập niên 1990, PGS Nguyễn Thị Phượng và nhóm nghiên cứu phát hiện gene bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne, giúp ngừa bệnh xuất hiện ở thế hệ tương lai.
Ảnh đại diện tin bài

PGS Nguyễn Thị Phượng. Ảnh: NVCC

Tai nạn giao thông giảm sâu trong kỳ nghỉ Tết Nguyên đánCha mẹ cần chú ý 3 bệnh dễ gặp ở trẻ khi vào xuân

Hàng chục năm về trước, bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne là một thách thức lớn với ngành y tế Việt Nam vì chưa có phương pháp phòng, điều trị. Đây là bệnh lý di truyền liên kết với giới tính lặn, gene bệnh nằm trên nhiễm sắc thể X. Mẹ mang gene có thể truyền cho con trai.

Những đứa trẻ mắc bệnh thường biểu hiện từ 2-3 tuổi, với các triệu chứng chậm biết đi, đi lại yếu, dễ ngã. Từ 5-6 tuổi, bệnh tiến triển nặng hơn, các nhóm cơ ở cánh tay, đùi và mông teo nhỏ, còn cơ bắp chân và cẳng tay phì đại. Đến khoảng 13-15 tuổi, trẻ mất khả năng đi lại và có thể tử vong ở tuổi 18-20 do suy kiệt, suy tim hoặc nhiễm khuẩn. Các bác sĩ khi đó chỉ có thể đưa ra phác đồ điều trị giúp bệnh tiến triển chậm hơn.

Chứng kiến số lượng bệnh nhân bị loạn dưỡng cơ Duchenne đến viện ngày càng nhiều và hoàn cảnh khó khăn của các gia đình, TS Nguyễn Thị Phượng, Bệnh viện nhi Trung ương, trăn trở. "Chúng tôi luôn tự hỏi, nếu không chữa trị được thì làm thế nào để ngăn ngừa căn bệnh này xuất hiện trong các thế hệ tương lai", PGS Phượng chia sẻ.

Bà kể, ở thập niên 1990, kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, điều kiện nghiên cứu khoa học tại Việt Nam rất hạn chế, các kỹ thuật phân tử chưa có điều kiện phát triển. TS Phượng và đồng nghiệp đã đi những bước đầu tiên trong nghiên cứu bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne, đó là mô tả lâm sàng của bệnh.

Ở bệnh nhân Duchenne, enzym Creatinine-Kinase (CK) tăng rất cao trong máu khi chưa có triệu chứng lâm sàng, nó tồn tại suốt thời gian bị bệnh. CK giảm trong giai đoạn cuối của bệnh, khi các cơ teo hết. Như vậy có thể xét nghiệm để chẩn đoán sớm bệnh.

Ở những người phụ nữ mang gene bệnh, CK cũng tăng cao từ gấp đôi cho đến hàng chục lần. Vì thế, có thể sử dụng CK để phát hiện người lành mang gene bệnh. "Đây là phương pháp sinh hóa đơn giản, chi phí thấp, phù hợp với điều kiện Việt Nam thời bấy giờ". PGS Phượng nói.

Từ năm 1996, nhóm bắt đầu công bố các kết quả nghiên cứu ban đầu như đặc điểm di truyền của bệnh teo cơ Duchenne, hay khả năng phát hiện người lành mang gene bệnh. Năm 1999, TS Nguyễn Thị Phượng tiếp tục nghiên cứu về phát hiện đột biến gene dystrophin gây bệnh Duchenne ở trẻ em Việt Nam. Bà cho biết, thời điểm đó việc tìm kiếm đột biến gene gặp nhiều khó khăn, phải gửi mẫu ra nước ngoài phân tích, tỷ lệ thành công không cao.

Không dừng lại ở đó, từ năm 2001-2003, TS Phượng cùng đồng nghiệp đã sử dụng phương pháp định lượng enzym Creatinine - Kinase huyết thanh để phát hiện người lành mang gene bệnh cho mẹ hay chị em gái của mẹ của bệnh nhân. Đây là vấn đề nghiên cứu thuộc đề tài cấp Nhà nước do GS.TS Trịnh Văn Bảo, Trưởng Bộ môn Y sinh học di truyền, trường Đại học Y Hà Nội làm chủ nhiệm.

Nhóm nghiên cứu đã chọn 122 gia đình có con bị Duchenne, ưu tiên các gia đình có người từng tham gia chiến đấu tại vùng bị rải chất độc hóa học. Tuy nhiên, chỉ có 76 gia đình tham gia. Nhóm đã xét nghiệm CK cho 148 thành viên nữ, phát hiện 44 người có chỉ số CK huyết thanh tăng cao, được xác định là người lành mang gene bệnh và được tư vấn.

Bằng phương pháp định lượng CK, nhóm nghiên cứu của TS Nguyễn Thị Phượng đã giúp phát hiện người lành mang gene bệnh, giúp cho công tác tư vấn di truyền đạt hiệu quả, góp phần quan trọng trong phòng bệnh. Bệnh nhân và các thành viên trong gia đình sẽ được lưu hồ sơ bệnh án ở phòng tư vấn di truyền.

Những nỗ lực không ngừng nghỉ của PGS Nguyễn Thị Phượng và các cộng sự đã góp phần thay đổi nhận thức và cách tiếp cận với bệnh di truyền ở Việt Nam. Nghiên cứu đã giúp xác định được khoảng 1.300 gia đình mắc bệnh. Năm 2012, đề tài "Phát hiện người lành mang gene bệnh bằng phương pháp định lượng enzym Creatinine-Kinase huyết thanh" do bà chủ trì là một trong sáu đề tài nhánh thuộc đề tài cấp Nhà nước của GS Trịnh Văn Bảo được tặng Giải thưởng Nhà nước.

PGS.TS Vũ Chí Dũng, Giám đốc Trung tâm Nội tiết - Chuyển hóa - Di truyền và Liệu pháp phân tử cho biết, các nghiên cứu chẩn đoán bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne và phát hiện người mang gene bệnh là nền tảng quan trọng cho việc lựa chọn các phương pháp điều trị đặc hiệu. Những phương pháp như thay thế gene (mini-dystrophin) hay sửa chữa gene chữa bệnh, vốn đã được ứng dụng trên thế giới, đang mở ra hy vọng mới cho người bệnh. Tuy nhiên, để giải pháp này phát huy hiệu quả, việc đánh giá mức độ nghiêm trọng của bệnh và theo dõi lâm sàng là điều không thể thiếu.

Các phương pháp chẩn đoán hiện đại hiện nay như MLPA phát hiện mất đoạn lớn của gene; giải trình tự thế hệ mới đang được ứng dụng rộng rãi trong chẩn đoán có những ưu điểm vượt trội. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, các kết quả vẫn khó đưa ra kết luận cuối cùng. Với sự kết hợp với các phương pháp truyền thống như đo nồng độ CK sẽ giúp định hướng trong chẩn đoán với người bệnh không có tiền sử gia đình; giúp hỗ trợ phiên giải kết quả xét nghiệm genee bằng phương pháp mới.

"Theo dữ liệu hiện nay, có khoảng 1300 gia đình mắc bệnh đã được xác định. Việc xác định người mang gene bệnh có ý nghĩa lớn trong phòng bệnh thông qua chẩn đoán tiền làm tổ. Xác định nồng độ CK cũng đang được sử dụng trong sàng lọc sơ sinh bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne ở một số nước", PGS Dũng nói.

Ngày nay, xét nghiệm CK vẫn là phương pháp phổ biến để phát hiện người lành mang gene bệnh vì giá rẻ và có thể làm được nhiều nơi. Bên cạnh đó, y học hiện đại đã tiến xa với khả năng phát hiện đột biến gene bằng công nghệ phân tử, mở ra nhiều hy vọng trong điều trị và phòng bệnh di truyền bằng phương pháp tư vấn di truyền và chẩn đoán trước sinh.

PGS.TS Nguyễn Thị Phượng, 79 tuổi, quê Quảng Trị, đã có hành trình gần hai thập kỷ nghiên cứu về bệnh loạn dưỡng cơ Duchenne.

Năm 1972, bà tốt nghiệp bác sĩ tại đại học Y khoa Hà Nội và ở lại trường làm cán bộ giảng dạy tại bộ môn nhi. Sau đó một năm, bà được Bộ môn phân công đi về phân môn di truyền và được đào tạo về chuyên ngành di truyền tại khoa Sinh học, trường Đại học Tổng hợp.

Năm 1989, bác sĩ Nguyễn Thị Phượng bảo vệ thành công luận án tiến sĩ về di truyền học tại Đại học tổng hợp Karlova Praha, Tiệp Khắc. Trở về nước, năm 1990 bà công tác tại khoa Nội tiết - Chuyển hóa - Di truyền, Viện bảo vệ sức khỏe trẻ em (nay là Bệnh viện Nhi Trung ương). Từ đó đến khi nghỉ hưu năm 2007, bà tập trung nghiên cứu về các bệnh di truyền hay gặp như Hội chứng Down, các bệnh rối loạn nhiễm sắc thể như hội chứng Turne, Klinefelter... các bệnh di truyền do đột biến gene về cơ, xương, bệnh tăng sản thượng thận bẩm sinh và các dị tật bẩm sinh. Bên cạnh đó, bà cũng nghiên cứu về chuyên ngành nhi chung.

PGS Nguyễn Thị Phượng đã chủ trì hai đề tài nhánh cấp nhà nước về bệnh dưỡng cơ Duchenne, và đề tài cấp nhà nước về nghiên cứu sức khỏe và tuổi dậy thì ở trẻ em, thực hiện 20 đề tài cấp cơ sở. Ngoài ra, bà đã công bố 34 bài báo trên các tạp chí y học uy tín.

 

Theo vnexpress.net
Nam thanh niên dân tộc Nùng dũng cảm hiến tạng hồi sinh 5 cuộc đời ở cả 3 miền Bắc - Trung - Nam
Nam thanh niên dân tộc Nùng dũng cảm hiến tạng hồi sinh 5 cuộc đời ở cả 3 miền Bắc - Trung - Nam

Anh C.G.C. không may bị tai nạn nghiêm trọng và bị chết não. Nén đau thương, gia đình anh C. thể hiện một nghĩa cử cao đẹp khi quyết định hiến tạng anh để cứu sống 5 người bệnh khác ở cả ba miền Bắc - Trung - Nam. Đây không chỉ là một hành động dũng cảm, giàu lòng nhân ái mà còn góp phần lan tỏa tinh thần nhân văn của phong trào hiến tạng tại Việt Nam.

Người cứu 2,4 triệu trẻ em
Người cứu 2,4 triệu trẻ em

(SKTE) - Một trong những người hiến máu nổi tiếng nhất thế giới, người có huyết tương giúp cứu khoảng 2,4 triệu trẻ em đã qua đời.

Trái tim Nhân ái Mai Thị Ngọc Thạch Hành trình lan tỏa giá trị từ gia đình đến cộng đồng
Trái tim Nhân ái Mai Thị Ngọc Thạch: Hành trình lan tỏa giá trị từ gia đình đến cộng đồng

(SKTE) - Trong giới doanh nhân và cộng đồng Hoa Hậu, Mai Thị Ngọc Thạch không chỉ là một cái tên quen thuộc mà còn là biểu tượng của sự kiên trì, tình yêu thương và khát khao không ngừng phát triển. Thành công của chị không chỉ được khẳng định trên thương trường, mà còn qua hành trình tìm kiếm tri thức và lan tỏa giá trị tích cực đến gia đình và cộng đồng.

Hoa hậu nhân ái Lê Tường Vân Hơn 15 năm thanh xuân dành cho hành trình thiện nguyện
Hoa hậu nhân ái Lê Tường Vân: Hơn 15 năm thanh xuân dành cho hành trình thiện nguyện

(SKTE) - Sinh ra trong một vùng quê nghèo, tuổi thơ của Lê Tường Vân gắn liền với dòng sông Nhà Lê hiền hòa chảy qua. Chính điều đó đã tạo nên một Lê Tường Vân với trái tim ấm áp và tràn đầy yêu thương. Hơn 15 năm tham gia các công tác thiện nguyện, người đẹp Lê Tường Vân luôn tự hứa với lòng sẽ cố gắng hết sức để giúp được ai thì giúp, làm được điều gì cho những người xung quanh là sẽ làm. Hàng trăm nghìn áo ấm được trao cho trẻ em vùng cao, hàng triệu phần quà được đưa đến cho trẻ em nghèo khắp cả nước. Đó là hành trình từ trái tim đến trái tim và một thanh xuân rực rỡ mà Lê Tường Vân đã có được!

Tiên phong trong triển khai các kỹ thuật chống đau chuyên sâu cho bệnh nhân
Tiên phong trong triển khai các kỹ thuật chống đau chuyên sâu cho bệnh nhân

Nhắc đến Thạc sĩ, bác sĩ Lâm Tiến Tùng, Trưởng khoa Cấp cứu – Hồi sức tích cực 2, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa, lãnh đạo, đồng nghiệp và người bệnh đều có chung cảm nhận về người thầy thuốc giỏi y thuật, sáng y đức, luôn hết lòng vì sức khỏe người bệnh. Đặc biệt, anh còn tiên phong trong việc triển khai các kỹ thuật chống đau chuyên sâu cho bệnh nhân, giúp tăng cơ hội sống và giảm di chứng cho người bệnh.

Hạnh phúc khi “nghề chọn người”
Hạnh phúc khi “nghề chọn người”

(SKTE)- Hơn 30 năm công tác tại Khoa Huyết học và Trung tâm Truyền máu, Bệnh viện Chợ Rẫy Thành phố Hồ Chí Minh, Tiến sĩ, bác sĩ Trần Thanh Tùng trở thành một trong những người đặt nền móng cho sự phát triển của đơn vị. Đặc biệt, ông từng có thời gian tham gia nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, góp phần làm rạng danh bác sĩ Việt Nam ở nước bạn.

Center Two can thiệp ngay cho 2 trẻ dị tật chân ở Điện Biên
Center Two can thiệp ngay cho 2 trẻ dị tật chân ở Điện Biên

(SKTE) - Ngày 27/02/2025, trong quá trình khám nhận diện trẻ khuyết tật tại tỉnh Điện Biên, các bác sĩ trong đoàn khám sàng lọc cho trẻ khuyết tật đã nhận thấy tình trạng khuyết tật nghiêm trọng của hai em nhỏ và ngay lập tức thực hiện việc bó bột chỉnh hình tại chỗ.

Logo Tạp chí Sức khỏe trẻ em
© Bản quyền 2024 Sức khỏe Trẻ em
Hotline: Hà Nội - (024) 37 765 156 / TP HCM - 0936813116
Logo Báo điện tử Thừa Thiên Huế
Tạp chí Sức khỏe Trẻ em
Địa chỉ: Số 51 Vũ Ngọc Phan, Hà Nội.
Điện thoại:  0988158008; 0971251286.
Email: suckhoetreem2024@gmail.com.
Giấy phép số 298/GP-BTTTT, ngày 6/10/2024 của Bộ Thông tin và Truyền thông.
STK: 0021000568719, Ngân hàng Vietcombank
Ghi rõ nguồn Sức khỏe Trẻ em khi phát hành lại thông tin từ website này.
Thiết kế bởi Tập đoàn Trí Nam
Chịu trách nhiệm nội dung:
Tổng biên tập: TS. Trần Doãn Tiến.
Phó Tổng Biên tập: TS. Nguyễn Văn Minh.
P. Trưởng ban Thư ký tòa soạn: Lê Minh Nam.
Truyền thông - Quảng cáo: Hà Diệu Hiền , Giám đốc Trung tâm Truyền thông
Tổ chức sự kiện: Nguyễn Văn Mạnh , P. Giám đốc Trung tâm Media
Trị sự: Đoàn Thanh Hà, P. Trưởng ban Trị sự