 |
(Ảnh minh họa) |
Chuyến tàu tốc hành phương Nam bị chậm lại ở đây gần 5 phút. Pavel Georgievich đứng hồi lâu trên sân ga không một bóng người và lắng nghe tiếng dế kêu rộn rã sau nền đường sắt rẽ nhánh trên thảo nguyên.
Bỏ lại sau lưng những ngột ngạt trong toa tàu, những cuộc nói chuyện ể oải dọc đường trong khoang tàu đầy khói thuốc khi ngồi chơi bài préférence giữa đêm khuya, những cuộc làm quen vô bổ, tiếng giường tầng cọt kẹt chán ngắt, Pavel Georgievich cảm thấy một sự tĩnh lặng khác thường giống hệt như thời thơ ấu.
Anh thoải mái ngồi xuống vali, áo khoác vắt qua vai và cứ ngồi như vậy, ngắm nhìn cảnh vật xung quanh với vẻ thư thái sung sướng. Mặc dù về bản chất nghề nghiệp, anh không phải đi lại nhiều, nhưng không hiểu tại sao anh lại yêu thích cái mùi dầu bốc lên từ những thanh tà vẹt, tiếng còi của đầu máy hơi nước, tiếng bánh xe hối hả, cái oằn mình của toa tàu cuối, ở chỗ đó có người soát vé cầm lá cờ nhỏ bạc màu cuộn tròn lại khua phất phất, làn gió ấm áp do những toa tàu chạy tạo ra - tất cả những thứ đó khơi dậy trong anh một ước muốn mơ hồ được xê dịch, được đi từ chỗ này đến chỗ kia.
Đôi khi ở Matxcova, khi đang ngồi lỳ nghiên cứu bản vẽ đến tận khuya, anh ngẩng đầu, vừa nhìn ra cửa sổ mở toang về phía những cây phong vừa trầm ngâm lắng nghe hồi lâu tiếng những con tàu đêm báo hiệu nhau trên sân ga vang vọng êm êm phía trên thành phố đang ngon giấc. Đôi khi tiếng còi tàu làm anh phiền lòng, làm anh xao động, giống như có gì đó làm anh nhớ đến thảo nguyên ban đêm với hoàng hôn bụi mù trên những đụn cỏ tối đen. Và khi lòng đầy bồi hồi xúc động, anh bỏ dở công việc, xỏ chân vào dép lê để không làm vợ thức giấc, rồi ra khỏi nhà, đi lang thang trên những con phố tĩnh lặng không một bóng người.
Pavel Georgievich Safonov là kỹ sư thiết kế danh tiếng ở một nhà máy lớn, và cùng với năm tháng anh đã quen với sự nổi tiếng này và, dường như, thậm chí còn hơi mệt vì nó, giống như đôi lúc người ta mệt mỏi khi thành công và sự thỏa mãn sớm đến với họ. Năm nay, Safonov cảm thấy kiệt sức vì công việc phức tạp trong mùa đông nên đã đi nghỉ ở một nhà nghỉ dưỡng trên bờ biển phía nam Crimea. Miền Nam nắng chói chang cùng với cái nóng khô gay gắt, những cây cọ dị thường trên các đại lộ, cát nóng như nung trên bãi biển, tắm và nằm thư giãn mặc cho gió ấm áp mang vị mặn của biển thổi hiu hiu. Toàn bộ chế độ nghỉ dưỡng làm cho người ta cảm thấy vô công rồi nghề, nhiễm thói lười biếng kiểu an dưỡng, những ý tưởng trong cái môi trường nóng nực này cũng bị cùn nhụt đi, lười biếng đi, và chỉ muốn mau mau chóng chóng trở về Matxcova, về với những cơn mưa mùa thu, với những mặt đường nhựa ướt át, với loáng nước phản chiếu ánh đèn pha.
Con tàu tốc hành phương Nam mà trên đó Safonov từ nhà nghỉ dưỡng trở về, đưa anh vụt qua những chỗ quen thuộc, mà ở đó anh đã sinh ra, đã lớn lên, nơi đó anh đã nhiều năm không quay trở lại. Buổi sáng, khi nhìn thảo nguyên mát lạnh qua cửa sổ mờ hơi ẩm của lối vào toa tàu, Safonov càng lúc càng cảm thấy buồn khi hồi tưởng lại những gì mà trước đó chỉ nhớ một cách mơ hồ: đó là anh, một cậu bé, mặc chiếc áo sơ mi vải sa tanh bẩn, cầm trên tay những con gà con, chạy khắp thảo nguyên phủ sương muối đóng băng, chạy theo con tàu không biết đi về đâu, cỏ cây trĩu nặng ẩm ướt quất ràn rạt vào đầu gối cậu, làm đôi chân mát lạnh dễ chịu...
Lúc đó anh bao nhiêu tuổi? Đôi lúc anh cảm thấy rõ, dường như anh đi cùng Vera trên con đường thoai thoải tràn ánh trăng trên đồi Shakhty, từ dưới đất xộc lên mùi ngải cứu, đôi môi khô nứt nẻ vì gió của Vera cũng phảng phất mùi ngải cứu. Những ký ức đưa anh trở về với thế giới mà từ lâu anh đã từng sống (cũng có thể là chưa sống). Chúng nói và nhắc nhở rằng, anh đã ngoài 40 và chưa làm được gì nhiều trong cuộc đời, trong đó tuổi trẻ ban đầu đã qua đi từ lâu và được đánh dấu bằng những dấu mốc khó phai mờ.
Đột nhiên anh có một ham muốn không thể cưỡng lại - trở lại thành phố nhỏ quê hương mình ở thảo nguyên: đi lang thang khắp thành phố, đọc những biển quảng cáo trên hàng rào, nhìn thấy những tên phố cũ, khám phá xem có gì đã thay đổi ở đó sau nhiều năm, nhất định phải tìm gặp những người quen từ thời học phổ thông, những người xa xôi tựa hồ như chưa từng tồn tại. Anh khao khát được ngồi với người bạn thời trai trẻ Vitka Snegirev trong một quá cafe mùa hè ở đâu đó, dưới mái bạt, uống bia lạnh và hồi tưởng lại những chuyện thơ ngây, chuyện ngày xưa và chuyện yêu đương - những thứ không bao giờ lặp lại nhưng dẫu sao đã từng xảy ra trong cuộc đời anh.
Mặc dù đã bị khao khát ấy chinh phục, Pavel Grigoryevich vẫn đưa tay xoa mũi với vẻ chua xót (trước đây đôi lúc anh từng chế nhạo những khao khát của chính mình), rồi bước vào khoang tàu nơi mọi người đang ngủ, nghĩ lại một lần nữa rồi thu xếp vali, cầm lấy áo khoác và, trước sự ngạc nhiên của người trưởng toa còn ngái ngủ đang khẽ quét hành lang, anh bước xuống chỗ đường tàu rẽ nhánh vào lúc sáng sớm tháng Tám hôm đó. Anh không xuống ga trong thành phố mà xuống chỗ này để đi bộ vào thành phố.
Con tàu tốc hành phương Nam cùng với những ô cửa kính bị ánh bình minh hun nóng, với những rèm cửa đầy bụi bám, rùng mình chuyển bánh, cuốn theo đám giấy vụn bị gió cuốn bay lên, nhanh chóng rời xa; những làn khói của đầu máy hơi nước chạy êm êm tan biến giữa bầu trời trong xanh như thủy tinh xa xa về phía tây. Không gian đã trở nên tĩnh lặng. Trong không gian tĩnh lặng đến bất thường này, không ngừng ngân lên tiếng gáy, tiếng kêu lạch xạch của những con dế bên nền đường sắt.
Ngồi trên vali Safonov vừa bồi hồi hút tẩu thuốc vừa nghĩ: "Thú vị khác thường!" - và khoan khoái hít căng lồng ngực thứ không khí se lạnh và trong lành như nước giếng này. Thảo nguyên vẫn mang trên mình bộ áo sặc sỡ đúng kiểu mùa hè, vào giờ phút bình yên buổi sáng này đã trở nên đỏ rực và ấm áp sau những quả đồi ở phía đông.
Anh sải bước trên đường, thích thú dẫm đôi giày cao cổ trên lớp bụi mịn. Sau đó anh bẻ một cành cây để nguyên lớp vỏ mỏng dinh dính dùng nó gạt sương kiểu như trẻ con, vụt vào ngọn một bông hoa màu tím nào đó ở bên vệ đường (hồi nhỏ anh biết tên nó nhưng giờ thì quên rồi). Từ trong bông hoa vụt bay ra một con ong đất màu vàng còn ngái ngủ, toàn thân dính đầy phấn hoa ẩm ướt. Nó bay vù vù qua người anh với vẻ nặng nề và tức giận.
- Mày được đấy! - Pavel Grigoryevich nói trong lúc đưa mắt vui vẻ nhìn theo nó. - Xin lỗi nhé, nếu đã phá bĩnh giấc ngủ của mày...
Khi Safonov bước vào thành phố quê hương, vùng ven ô chào đón anh bằng những bóng cây dương già chạy dọc con đường; đâu đó trong các khu vườn bay lên lơ lửng làn khói xanh xanh của bếp đun ấm samovar, những cành táo cháy nắng đung đưa qua hàng rào. Safonov vừa đi vừa vung vẩy cành cây, hít sâu mùi hương cây cối trong vườn, cả mùi khói nhựa cây đun ấm samovar, - những mùi hương này, những bóng cây dương này gợi anh nhớ đến tuổi thơ, chiếc chuồng chim bồ câu, những ván cờ Chapaev (một trò chơi có bàn như cờ vua - ND), những lần chạy thục mạng sang vườn nhà người khác, - những việc xảy ra biết bao lâu rồi! Có chuyện đó không nhỉ?
Suốt cả ngày Safonov đi khắp thành phố và vẫn không nhận ra nó. Chắc nó cũng không nhận ra anh. Cái thành phố nhỏ cổ kính ở thảo nguyên này chính xác là toàn những người mới đến ở, nó đã được xây mới từ đầu; trung tâm thành phố lấp lánh những tủ gương trưng bày ở những vị trí dễ nhìn và bắt mắt, đông nghịt người mặc quần áo đủ màu sắc hối hả đi qua những ngã tư, những viên cảnh sát mặt rám nắng, mặc áo trắng cổ cồn, vung gậy điều tiết giao thông một cách chuyên nghiệp và nghiêm túc, những con người ể oải, nhễ nhại mồ hôi đứng ở các bến xe buýt điện trong bóng râm loang lổ của những cây keo, chỗ nào cũng thấy bán loại nước uống có ga như trên phố Gorkyi ở Matxcova...
Còn trước đây, chỗ này có những người bán kem râu quai nón, mặt đỏ gay, đeo tạp dề, miệng ngáp vì nắng nóng, thi thoảng lơ đễnh quát lác giống như những người lao công. Đường phố vắng bóng người và nóng hầm hập dưới cái nắng oi ả, chỉ có những con chó nằm mơ màng trên bậc thềm và lưỡi thè ra thở, những con gà lục cục trong đám ngải cứu trắng đầy bụi.
Anh bốn lần chậm rãi đi đi lại lại dọc con phố, nơi mà trước đây anh đã sinh ra và nơi đó từng có ngôi nhà nhỏ bằng đất sét của gia đình anh. Bây giờ chỗ đó là một vườn hoa mới toanh, với những lối đi phủ cát giữa hai hàng cây, những bóng cây đan vào nhau, những đốm nắng rọi qua tán cây.
Vườn hoa này trước đây chưa từng có, nó hoàn toàn không nhớ và không biết gì về thời thơ ấu của Pavel Georgievich, nó cũng như không biết rằng, ở chính chỗ này, bên cạnh cái cổng từng tồn tại, anh vụng về đặt nụ hôn đầu lên môi Vera, còn cô ngỡ ngàng đặt ngón tay lên môi mình, cúi đầu xuống, rồi với vẻ ngập ngừng yếu ớt hỏi anh: "Bây giờ, chúng mình sẽ là của nhau suốt đời phải không anh?"
Safonov ngồi xuống một chiếc ghế băng, im lặng nhìn vườn hoa trước mặt hồi lâu với tâm trạng chán chường mệt mỏi. Không còn lại một chút gì từ trước, từ thời thơ ấu của anh, không còn gì... Điều đó thật đáng giận, thật không thể hiểu được, dường như người ta đã lừa dối anh một cách tàn nhẫn và độc ác, đã tước đoạt của anh cái gì đó mà đáng ra không nên tước đoạt.
Nhưng bây giờ Vitka Snegirev ở đâu? Vera ở đâu? Vitka là tình bạn trung thành đầu tiên thời trẻ con, còn Vera, như người ta thường nói, là mối tình đầu đau khổ và dễ mủi lòng nhất, những mảnh giấy viết thư vội trao cho nhau trong giờ học, cùng đứng bên nhau trên bậc thềm phủ đầy bông tuyết vừa rơi, hôn nhau nụ hôn rụt rè ban đầu mà anh còn nhớ...
Pavel Georgievich nhìn những chiếc xe nôi, những cậu bé đội mũ tai bèo trắng lăn lê bò toài giữa đống cát, cậu thanh niên mặt rám nắng mặc áo cộc tay, cô gái dáng người xương xương như thiếu niên miệng ngậm cành cây keo, những người hoàn toàn không quen biết chậm rãi đi theo lối mòn giữa hai hàng cây trong vườn hoa. Và anh đứng dậy, động tác như ông già vắt chiếc áo khoác qua cánh tay. Không biết vì sao anh cảm thấy mình như là một du khách đến thành phố này.
Bỗng nhiên anh nhớ đến phố Sadovaya, ở đó, trên con phố ngoại ô cây mọc san sát này, có Vitka Snegirev đã từng sống trong cái thế giới của tuổi thơ đó, còn Vera sống trong một ngôi nhà nhỏ ở góc phố, cạnh hiệu thuốc. Anh muốn tìm hiểu những chuyện về hai người bạn này: "Chuyện gì đã xảy ra với chúng nó? Chúng nó bây giờ sống ra sao?".
Phố Sadovaya vẫn như cũ, những cây keo lá bạc xen với những cây dương trồng dọc hàng rào, tán lá đan xen vào nhau ở bên trên, tạo thành một mái lều xanh thẫm trên suốt cả con phố, những chùm hoa dương vương rơi trên vỉa hè trông như những con sâu đầy lông lá, - tất cả giống như những ngày anh còn nhỏ.
Safonov nhìn quanh những ngôi nhà một tầng thân quen từ thuở ấu thơ, chúng bị tán cây che khuất. Anh nhìn những tấm kính hắt ra thứ ánh sáng mờ mờ trên những mái hiên mùa hè, dây thường xuân quấn vào nhau um tùm, và tham lam tìm kiếm ở đây cái gì đó cũ kỹ, thân quen và duy nhất đối với anh.
"Kia rồi, ngôi nhà nhỏ... của Vitka Snegirev! Đúng rồi! Nhà số 5". Biển số nhà có đèn chiếu sáng nhưng khó thấy vì bị cành cây rậm rạp che khuất, và Pavel Georgievich ngạc nhiên mỉm cười, hất chiếc mũ ra sau gáy. Ngay lúc đó, anh cảm thấy có chút do dự khi bước lên bậc thềm cũ kỹ kêu cọt kẹt, còn ấm hơi nắng, phảng phất mùi gỗ khô.
Chào đón anh là một phụ nữ trung niên mà anh không hề quen biết. "Không, gia đình Snegyriev sau chiến tranh không ở đây, đi hết rồi. Có lẽ, tôi quên, hình như họ ở Sverdlovsk. Hình như, con trai họ là giám đốc nhà máy. Hai năm trước, khi nghỉ phép có đến đây. Thế còn anh là ai? Họ hàng hay là gì của họ?
Trong lúc nghe người phụ nữ nói, Pavel Georgievich cởi mũ và vò nó trong tay; cuối cùng anh đã hiểu rõ và bực mình lầm bầm: "Vâng, tôi là họ hàng xa" - anh bước xuống bậc thềm, trong lòng cảm thấy chua xót và cay đắng.
Đi đâu bây giờ? Nhưng dẫu sao anh vẫn hy vọng tìm được người đó, biết được tin tức về người mà anh còn nhớ rõ, anh chưa quên cái hiệu thuốc có mái chóp nhọn ở cuối phố và gần ngôi nhà nhỏ dưới những tán cây dương, nơi Vera từng sống.
Tuy nhiên, khi đến gần ngôi nhà thấp thoáng sau tấm biển của hiệu thuốc này, anh cảm thấy sờ sợ, rụt rè, trong lòng đột nhiên hồi hộp đến mức phải dừng lại ở góc đường dưới những cây dương để lấy lại hơi thở. Chẳng lẽ anh vẫn còn yêu cô? Anh không hiểu điều gì đang xâm chiếm lòng mình, một người đã có vợ, có gia đình, - có lẽ, đó chỉ là nhất thời cảm thấy nuối tiếc sâu sắc rằng, mọi sự không được như ý, cũng có thể là khi nhớ lại những rung động đầu đời về một hạnh phúc đã thoáng qua từ rất rất lâu rồi.
Anh gạt mồ hôi trên trán rồi bấm chuông cửa. Và trong lúc chờ đợi, anh lại vừa mân mê cái mũ vừa cố xua tan mối do dự trong lòng.
Mẹ Vera đã già đi nhiều (anh nhận ngay ra bà, nhưng bà không nhận ra anh ngay: "Trời ơi, phải cháu Pavlusha đấy không? Cháu về đấy à, Pavlik?). Bà tỏ ra bận bịu đến buồn cười và xin lỗi vì trong phòng bừa bộn. Bà mời anh ngồi xuống đivan và vừa sốt sắng hỏi vừa nói: "Chúng ta nghe người ta nói, chúng ta đều biết rằng, cháu đã lên chức", còn anh thấy bà hơi khó hiểu. Anh sốt ruột chờ đến lúc bà không hỏi nữa và ấp úng hỏi:
- Thế Vera đâu ạ? Cô ấy đâu rồi?
- Ve-e-ra? - bà nhìn anh như người xa lạ. - Vera? - Bà khẽ hỏi lại và quay mặt đi, vừa đưa tay lên, đúng hơn là bà ôm lấy mặt.
Anh thấy nghẹt thở.
- Cô ấy đâu rồi ạ? - Anh khẽ nhắc lại.
- Chẳng lẽ cháu không biết à, Pavlusha? Vera không còn nữa... Nó mất rồi... Nó ra mặt trận làm y tá...
- Không lẽ, - anh nói lúng túng như người điếc đặc.
Sau đó anh nhớ lại: lúc đưa tiễn anh, mẹ Vera cứ trầm ngâm nhìn sâu vào mắt anh như muốn khóc và buồn bã nói đi nói lại:
- Thương quá, thương quá!... Hai đứa chúng bay lớn lên cùng nhau...
Safonov cảm thấy mình như vỡ vụn ra từng mảnh. Bây giờ anh không biết đi đâu về đâu, tìm kiếm ai. Và anh tình cờ ghé vào một quán cafe mùa hè ở góc đường. Trời nóng và ngột ngạt, anh không muốn ăn nhưng khi người phục vụ đến, anh gọi hai chai bia và ngồi rất lâu dưới bóng ô che trong bầu không khí ồn ào và tiếng nói chuyện nghe câu được câu chăng. Anh mệt mỏi nhìn thành phố xanh màu lá keo, với vẻ đẹp chói chang của phương Nam, và không hiểu vì sao bây giờ nó trở nên xa lạ với anh.
Anh thấy buồn bã, cô đơn, thất vọng. Đến lúc thấy bực tức và bất mãn, anh bỏ dở chai bia, trả tiền và cương quyết đi lang thang khắp phố một lần nữa với một hy vọng mong manh.
Nhưng anh vẫn không gặp được ai. Đến 10 giờ tối, khi đã mệt nhoài, anh đi về hướng nhà ga và đến phố Pristannaya 1. Đèn đường đã bật sáng trong không gian chập choạng yên tĩnh và tỏa ra thứ ánh sáng vàng vọt xuống lòng đường, gió mát lạnh liên tục thổi từng cơn từ các vườn cây, trong các ngôi nhà đã lên đèn, có tiếng nhạc máy quay đĩa vọng đến từ sân thượng ngôi nhà nào đó sau hàng rào. Những chiếc xe buýt điện phát ra âm thanh lào xào phóng trên đường cái về hướng thành phố. Ánh đèn đường chiếu vào chúng trông như những chiếc bể cá màu xanh, ở góc đường có tấm biển quảng cáo rạp hát nhấp nháy đèn neon theo hình dích dắc.
Ở thành phố này không ai biết anh. Chỉ có mẹ của Vera...
Pavel Georgievich mặc áo khoác và đi về phía bến xe buýt điện. Anh ngẩng đầu lên và chợt nhìn thấy ngôi trường mình đã từng học phía sau một ngách phố. Ngôi nhà bốn tầng với những ô cửa sổ tối đen vẫn ở chỗ cũ... Nó không thay đổi. Nó vẫn như cũ, vẫn như lúc tuổi thơ của anh cách đây nhiều năm.
Mấy phút liền anh nhìn không rời mắt khỏi bóng hình màu thẫm của ngôi trường, sau đó, tựa như bị ai xô đẩy, anh khoát tay một cách tuyệt vọng và bước vào sân trường tối đen... Anh ngồi xuống ghế dưới tán cây keo già, mệt mà vui. Ở chỗ này, trong giờ ra chơi bọn anh đã từng chơi trò đoán mò. Đó thường là vào mùa xuân, khi mặt đất bốc lên mùi hơi ẩm dễ chịu. Anh lần sờ chiếc ghế băng, vuốt ve thân cây keo và bật cười, giống như anh đã gặp lại một người đã quen biết từ lâu, người đó nhân hậu đến nao lòng và không hề thay đổi sau bao năm, người này biết rõ về Pavel Georgievich và anh cũng biết tường tận về người đó...
Chẳng lẽ anh đã từng học ở đây? Chẳng lẽ, trong kỳ thi mùa xuân đã từng có tiếng sấm rền vang khắp trường và cơn mưa rào tháng năm trút xuống thành phố - giống như lúc chợt vui, chợt giận của cơn giông đầu mùa. Cơn mưa quất ràn rạt trên đường nhựa, rung cành cây ào ào, chảy ồ ồ trong ống nước, rạch những tia chớp màu tím trên mái nhà ướt át... Lúc ấy chỉ muốn bỏ không thi nữa, cùng với lũ trẻ con chạy dưới cơn mưa ấm áp vui tính này, xắn quần lên, bì bõm mỗi chân dẫm vào một vũng nước. Vũng nước sủi tăm nhưng vẫn in bóng bầu trời đã quang mây.
"Ừ, đúng như vậy!". Anh hình dung mọi thứ rõ ràng và, với vẻ bồi hồi và tò mò, anh nhìn lại tòa nhà tối đen của ngôi trường, bỗng nhiên anh thấy ở bên phải, trong bóng tối ẩm ướt của sân trường, dưới những tán cây keo rậm rạp có một ánh lửa đỏ le lói giữa những cành cây. Chẳng lẽ đó là cô Maria Petrovna?... Cô Maria Petrovna, cô giáo dạy toán của anh, đã sống ở đây, tại sao anh lại không nghĩ, không nhớ ngay đến cô! Anh luôn là cậu trò cưng của cô, cô đã tiên đoán rằng anh sẽ có một tương lai xán lạn trong lĩnh vực toán học...
Anh đứng bật dậy, sải bước dọc lối mòn đi vào sâu trong vườn trường. Khi đến gần, anh nhìn thấy một ngôi nhà nhỏ dưới tán cây, ánh sáng mờ đục trong ô cửa sổ che kín bằng rèm đỏ, và anh cảm thấy như nghẹt thở. Biết bao năm rồi anh chưa gặp lại cô! Cô còn ở đây không? Cô còn sống không? Có xảy ra chuyện gì với cô không? Biết bao nhiêu kỷ niệm gắn với cái tên Maria Petrovna này!...
Và Safonov thận trọng, nín thở bước lên bậc thềm. Anh muốn gõ cửa nhưng cửa hóa ra không đóng, anh bước vào phòng ngoài không thắp đèn, nghe thoang thoảng mùi dầu hỏa. Ánh sáng lọt qua dưới khe cửa vào phòng trong.
Safonov gõ cửa nhưng không có tiếng trả lời.
Anh bối rối ấn tay vào cánh cửa khóa chặt và chợt hiểu: trong nhà không có ai. Anh cười nhạo chính mình, lắng nghe, sao trong phòng không người ở lại có tiếng radio, anh mò mẫn trong bóng tối đi ra cửa. Vai anh chạm vào cái gì đó, có tiếng xô đựng nước đổ ào. Anh máy móc cúi xuống, định nâng chiếc xô lên nhưng làm rơi mũ và vô tình bật ra câu chửi: "Cái đồ chết tiệt này!..."
- Ai đấy? - Anh nghe có tiếng nói từ phía sau.
Pavel Georgievich đứng thẳng dậy và xoay nghiêng người nhìn lại. Đứng giữa khe cửa sáng là một người phụ nữ gầy gò nhỏ bé, dù chưa nhìn rõ mặt, nhưng anh đã nhận ra bà...
- Cô Maria Petrovna, - anh nói nhỏ và gọi thẳng tên bà. - Cô nhận ra em chứ?
- Anh vào đi, - bà nói bằng giọng nghiêm khắc và lịch sự, rõ ràng, đó chính là giọng bà dùng để nói với phụ huynh học sinh khi họ đến nhà bà "nói chuyện".
Pavel Georgievich bước vào, tay buông thõng và vừa nhìn thẳng vào đôi mắt cận nheo nheo của bà và hỏi lại:
- Cô Maria Petrovna, cô không nhận ra em à? Em là...
Bà mất mấy giây nhìn anh từ dưới lên trên, anh nhìn thấy khuôn mặt nhợt nhạt, ốm yếu và già nua tựa như bị thời gian làm héo mòn của bà, và trong giây phút ấy, trong lúc kìm nén nỗi xót xa, anh thầm nhận ra rằng, bà thay đổi nhiều quá, mỏng manh hơn, gày gò hơn, chỉ có mái tóc bạc vẫn được cắt tỉa ngắn thân quen như ngày trước.
- Pasha Safonov... Pasha (tên thân mật của Pavel) phải không? - Bà nói giống như bị giật thột và Pavel Georgievich có cảm giác rằng, khuôn mặt bà run rấy. - Mời em ngồi... Cô xin lỗi, nhà cô bừa bộn quá... Mời em ngồi đây. Cạnh bàn này. Pasha... em về đây đấy à?
- Vâng, vâng, em ngồi đây! - Anh nói trong lúc lúng túng treo áo và mũ lên mắc áo, nơi đó anh thấy bà chỉ treo đúng một chiếc áo măng tô. Trong lúc treo áo, anh không hiểu và không biết, tại sao mình, một người đã trưởng thành, bệ vệ lại rụt rè, đỏ mặt như cậu học trò thuở ấy.
Anh định bắt tay bà, nhưng kìm lại và không làm vậy, giống như người ta không bắt tay khi gặp mẹ mình. Anh lấy tẩu và hộp đựng thuốc và rụt rè hỏi:
- Cô cho phép em chứ?
Anh và bà giáo ngồi vào bàn. Maria Petrovna không hiểu sao lại tỏ ra thận trọng và không tin rằng đó là anh. Bà nheo đôi mắt cận cười với anh và nhanh giọng hỏi lại:
- Nào, Pasha, em đã về đây... cô không nhận ra, em đi việc công hay việc riêng?
- Em ghé ngang đường thôi, cô ạ, - anh trả lời và không nói rằng, anh đi nghỉ ở miền Nam, nếu nói vậy chắc chắn có vẻ không suy nghĩ cẩn thận và không phù hợp.
- Bây giờ cô trò mình uống trà nhé... Em đợi chút, cô đi pha trà. - Và bà đứng dậy và đột nhiên lại ngồi xuống, đặt bàn tay mảnh dẻ lên bàn, bối rối mỉm cười. - Ừ, Pasha... Cô không ngờ đấy. Pasha Safonov...
- Cô Maria Petrovna, cô đừng pha trà, - anh bối rối nhắc lại. - Em vừa ăn tối ạ...
Trà thì anh không muốn uống; anh chỉ muốn ngồi thế này, nhìn bà, nói chuyện và hỏi bà... Nhưng bà dường như không nghe anh nói, bà đi lấy ấm pha trà, anh thấy cử chỉ của bà không tự nhiên.
- Cô xong ngay bây giờ đây, Pasha... Xin lỗi vì cô vẫn gọi em như vậy. Em bây giờ đã là....
Chưa nói hết câu bà đã vào bếp, và anh thở hắt ra một cách thoải mái, lấy lại tinh thần. Anh lấy tay vuốt trán và nhìn quanh cho quen với cảnh vật. Bà vẫn thế, như trước chiến tranh, độc thân và sống trong căn phòng nhỏ có một ô cửa sổ mở ra vườn này. Mọi thứ vẫn như cũ: cái bàn, cái giường, cái thảm sặc sỡ treo trên tường, đồ thêu đặt trên tủ đầu giường, cái tủ to chứa đầy sách; giữa bàn viết là lọ mực, chồng vở, bên cạnh là chiếc bút chì đỏ được gọt cẩn thận. Trước đây, anh mới chỉ bước vào căn phòng này duy nhất một lần. Bà gọi anh đến phòng và chau mày nói chuyện với anh rất nghiêm khắc: hình như lần đó anh làm lọ mực nhảy và đặt nó lên bàn cô giáo dạy tiếng Đức. Đến bây giờ anh vẫn đơn giản không tin: có một vực thẳm thời gian giữa Pasha trước đây và Pavel Georgievich hiện tại, đã là kỹ sư thiết kế, mà vẫn còn ngượng ngùng ngồi bên chiếc bàn này.
Bà Maria Petrovna mang ấm trà bước vào và vui vẻ nói:
- Mọi thứ xong cả rồi! Nào, Pasha, em kể chuyện mình đi, em bây giờ thế nào? Ngoài ra, cô biết khá nhiều về em đấy. Từ báo chí, các bài viết, sách của em cô đều đọc hết. Em lấy vợ rồi phải không? - Bà vội hỏi.
- Thưa cô, vâng ạ, - anh trả lời.
Bà nhìn anh dịu dàng nhưng có vẻ không tin:
- Em hạnh phúc chứ?
- Có vẻ thế cô ạ. Em được một cháu trai ạ.
Bà không nghe rõ và chuyển sang hỏi câu khác:
- Vậy là tốt rồi! Thế còn công việc của em thế nào? Bây giờ em đang nghiên cứu gì?
- Em đang nghiên cứu một thiết kế mới, cô ạ.
- Vậy thế nào? Thành công chứ?
- Hiện giờ chưa rõ ạ. Thưa cô, mình nói về những chuyện cũ, về trường mình cô nhé...
Bà Maria Petrovna lắc đầu và trầm ngâm nói:
- Cô nhớ rất rõ lớp của em. Lớp học trước chiến tranh. Đó là những cậu học trò ngỗ nghịch nhưng có tài năng. Cô nhớ rõ rằng em và Vitka Snegyriev chơi rất thân với nhau.
- Cô có còn nhớ, cái lần mà cô cho em điểm "2" môn đại số? Hình như là hồi lớp bảy...
- Ừ. Vì em không làm bài tập ở nhà và hy vọng ăn may. Em học toán rất giỏi nhưng lười học.
- Cô Maria Petrovna, cô có nhớ, em đã làm ra hệ thống phao thi không?
- Đó là phát minh làm cho phao thi dịch chuyển từ bàn này sang bàn kia bằng sợi chỉ phải không?
- Vâng! - Pavel Georgievich bật cười. - Còn lọ mực biết nhảy? Không, bây giờ chắc em chả thể nghĩ ra những trò nghịch ngợm đến mức như vậy. Em nhớ: em ngồi cả đêm, vò đầu bứt tai, tính toán lực đàn hồi của lò xo, để lọ mực bật lên đúng vào lúc cô giáo chấm bút.
Bà Maria Petrovna nheo mắt để nhịn cười.
- Còn cô thì nhớ rõ chuyện khác, lúc em đứng trước cái bàn này, Pasha ạ...
Bà bỏ dở giữa chừng, rót trà, lấy thìa, trầm ngâm và hỏi:
- Em còn nhớ Misha Shekhter?
- Em nhớ chứ! Em ghen tị với bạn ấy! Trong lớp bọn em đã đọc các bài tập làm văn của bạn ấy: "Hình tượng Tatyana", "Nỗi khổ tâm". Em làm văn dở lắm.
- Bạn ấy làm nhà báo, - bà nói chậm rãi. - Bạn ấy đi khắp cả nước, ra nước ngoài. Cô thường xuyên đọc các bài báo của bạn ấy viết. Cô thường nhớ lại...
- Bạn ấy có ghé thăm cô không?
- Không em ạ.
- Vâng, - anh nói. - Chúng em mỗi đứa bay đi một phương... Em thấy nói, Vitka Snegyriev là giám đốc nhà máy ở Ural. Em không ngờ! Ignatsev Senka làm cục trưởng, cô có nghe nói đến bạn ấy chứ? Em gặp bạn ấy ở Matxcova, trông bệ vệ đến mức không nhận ra. Bạn ấy có đến đây không, cô?
- Em nói gì nhỉ? - Bà hỏi lại và cúi mặt xuống, khẽ gật đầu. - Em uống trà đi, Pasha...
- Thưa cô, còn ai đã đến thăm cô, cô còn gặp ai ở lớp em? - Anh bức xúc hỏi. - Cô gặp Grisha Samoilova chưa? Bạn ấy là diễn viên. Cô nhớ chứ, bạn ấy nhăn mặt làm điệu bộ, cô bảo bạn ấy có năng khiếu? Bạn ấy bây giờ bận rộn lắm.
- Cô chỉ thấy bạn ấy trên phim thôi, Pasha ạ.
- Em cũng vậy. Chẳng lẽ bạn ấy chưa đến thăm cô?
Bà Maria Petrovna không trả lời mà cúi đầu dùng thìa khuấy tách trà, và anh nhìn thấy trên ngón tay bà còn một vết mực rửa chưa sạch. Anh đưa mắt nhìn khuôn mặt gầy héo của bà, cảm thấy vừa xót xa vừa yêu thương khi nhìn thấy những vết chân chim trên khóe môi, cái cổ mảnh mai yếu ớt, mái tóc cắt ngắn đã bạc rất nhiều của bà, có cái gì đó vừa đau vừa buồn bóp nghẹt trong ngực anh. Anh nghĩ, nếu như bà chết, có lẽ anh cũng không biết và các bạn khác cũng không biết...
- Cô Maria Petrovna, - anh nhắc lại câu hỏi bằng giọng nghẹn ngào. - Nghĩa là, Vitka Snegyriev không đến nhà cô? Hình như, năm ngoái bạn ấy có về đây.
Bà vẫn ngồi và cúi đầu như cũ, chỉ khuấy tách trà chậm dần.
- Không, bạn ấy không đến...
- Vậy, đã có ai đến thăm cô ạ?
- Em nói gì? Em uống trà đi. Kẻo nguội mất.
- Cô Maria Petrovna, vậy có ai viết thư cho cô không? Cô nhớ chứ, còn có Volodya Boykov, Nina Vinokurova? Borya Gmyrya? Cô có biết gì về họ không
Bà Maria Petrovna lại không trả lời mà nhìn ra cửa sổ, ở ngoài đó, vườn trường tối đen, ánh đèn xe buýt điện chạy ngang qua lấp loáng xuyên qua những hàng cây.
- Không có ai, Pasha ạ, - bà nói. Chỉ có Kolya Sibirtsev thường ghé thăm cô thôi. Bạn ấy làm ở hầm mỏ. Cuộc sống của bạn ấy vất vả. Bạn ấy hay ghé thăm cô lắm.
Safonov chỉ nhớ loáng thoáng Kolya Sibirtsev. Anh bạn này dường như là người ít nói, rụt rè, chả có gì xuất sắc, chả có tài năng gì nổi trội. Pavel Georgievich không hình dung ra được khuôn mặt người bạn này.
- Em chả nhớ gì về bạn ấy, - anh nhún vai và nói. - Em quên rồi.
- Rất tệ, - bà Maria Petrovna nói như không hẳn là đùa mà cũng không hẳn là chê trách.
Cả cô trò cùng im lặng. Nhưng câu nói cuối cùng của bà giáo "Rất tệ" làm anh cảm thấy không thoải mái, anh hiểu nó có hai ý. Cả hai người đều im lặng, anh với tay lấy tách trà, rụt rè lấy đường và thấy bà giáo đang nhìn lên tủ sách như có ý tìm kiếm gì đó từ lâu. Anh cũng nhìn theo và chợt nhận ra gáy một cuốn sách mà anh vừa viết gần đây về chế tạo máy bay.
- Cô Maria Petrovna, - anh nói khẽ như muốn hỏi.
- Em nói gì, Pasha?
- Ở nhà cô có cuốn sách của em phải không? - Anh khẽ nói và chợt dừng lại vì nhớ ra mình không gửi tặng bà cuốn sách này.
- Ừ. Cô đọc rồi.
Anh đứng ngay dậy, rút ra khỏi tủ cuốn sách mình viết "Thiết kế máy bay", lật từng trang và cảm thấy rằng, mặt mình bắt đầu nóng bừng. Anh ngượng ngịu nói với thái độ chuẩn bị làm một việc ngu ngốc:
- Cô Maria Petrovna, em ký tặng cô. Cô cho phép em nhé?...
Đột nhiên từ trong cuốn sách rơi xuống một mảnh giấy, anh vội vã nhặt lên và nhìn thấy rõ tấm ảnh chân dung của mình được cắt ra từ báo. Anh bàng hoàng nhìn bà giáo. Bà đang khuấy trà và nói rất nhanh:
- Một cuốn sách không tệ... Cô đọc rất thích... Còn đó là cô cắt ra từ báo "Sự thật", Pasha ạ. Khi thấy nó, cô đã gửi cho em một bức điện.
Anh vội vàng giấu mảnh giấy vào cuốn sách, chính xác là như muốn che giấu một điều khó chịu và đang làm anh cảm thấy như muốn chui xuống đất. Lòng anh tràn ngập nỗi hổ thẹn và căm giận chính mình, bây giờ anh đã nhớ lại rõ ràng và mạch lạc rằng, hai năm trước anh thực sự đã nhận được một bức điện giữa vô vàn bức điện mừng khác và đã phúc đáp các bức điện khác trừ bức điện của cô giáo mình.
Safonov không nhớ rõ mình đã viết đề tặng gì trên cuốn sách nhưng nhớ rất rõ lúc cô trò chia tay: anh thấy xấu hổ thế nào ấy khi lấy chiếc áo khoác sang trọng của mình treo bên cạnh chiếc áo măng tô sờn rách của cô giáo cũ. Anh cúi đầu chào bà mà trong lòng vẫn trĩu nặng cảm giác có lỗi. Bà thắp đèn phòng ngoài và ra tận cửa tiễn anh.
Anh im lặng. Bà Maria Petrovna cũng im lặng, rồi sau đó bỗng ngần ngừ hỏi anh:
- Pasha, em hãy cho cô biết trong công trình nghiên cứu của em có chút xíu gì đó mà cô dạy em không? Dù là bất kỳ chút gì đó...
- Cô Maria Petrovna, sao cô lại nói thế? - Anh ngượng ngịu khẽ nói. - Nếu như không có cô!...
Bà nhìn thẳng vào mắt anh và giọng nói của bà như làm anh rùng mình:
- Em nghĩ rằng cô không vui à? Hôm nay cô có một vị khách tuyệt vời làm sao! Em nghĩ rằng, ngày mai cô sẽ không kể lại chuyện này với các em học sinh chứ?... Em đi đi. Cô chúc em thành đạt và hạnh phúc...
Cô trò chia tay nhau. Anh nhanh chóng sải bước trên con đường trong khu vườn đã về đêm. Anh bất giác ngoảnh lại nhìn. Cửa phòng ngoài vẫn mở rộng, một luồng sáng vàng vọt chìm trong khu vườn tối đen. Bà Maria Petrovna vẫn đứng trên bậc thềm, thân hình gày gò bất động màu tối của bà nổi bật trong luồng ánh sáng chiếu qua cánh cửa mở rộng.
Suốt dọc đường về Matxcova, Safonov không thể trấn tĩnh được mà cảm thấy trong lòng thiêu đốt một nỗi hổ thẹn không thể chấp nhận được. Anh nghĩ đến Vitka Snegirev, Shekhter, Samoilov - đến tất cả những người mà anh từng học cùng bao năm qua, và định tìm địa chỉ của họ để viết thư mắng cho họ một trận không thương xót. Nhưng anh không có địa chỉ của họ. Sau đó, anh định viết một bức thư dài xin lỗi bà Maria Petrovna nhưng lại lo sợ và tuyệt vọng khi không biết địa chỉ nhà bà.
Đến một ga lớn, Safonov với vẻ mặt khó đăm đăm, hồi hộp bước xuống tàu. Anh ghé vào bưu điện, và ngập ngừng gửi một bức điện tín về trường cũ, đề tên bà Maria Petrovna. Trong bức điện chỉ vỏn vẹn có mấy chữ: "XIN CÔ THA THỨ CHO CHÚNG EM".
Người dịch: Dương Nguyên Khải.